Gọi Hồn Tâm Linh, Quận Đống Đa, Phường Hàng Bột. 14,647 likes · 46 talking about this. Gọi hồn người mới chết sau 1 tiếng. Tên: Pham Trung Thu. Những linh hồn vào địa ngục, người, súc sinh cũng không gọi hồn được. - Chỉ có những linh hồn chờ tái sinh lên cõi thần hoặc vào cõi ngạ quỷ mới gọi hồn được, thông thường gọi hồn được thì hồn ấy thường là ngạ quỷ, vì các cô đồng thì chưa đủ sức để triệu những vị thần về được. 3. Tuy nhiên, nên đặt mâm cúng co hồn ở đâu trong nhà, ngoài sân hay ở vị trí nào thì không phải ai cũng biết. Khi cúng, mâm cúng cô hồn nên đặt ngoài sân, không nên đặt mâm lễ cúng cô hồn ngoài bậu cửa. Bên cạnh đó, gia chủ có thể đặt mâm cúng theo hướng thuận lợi 1. Cách gọi hồn ma đơn giản bằng cách cầu cơ. Cầu cơ là cách gọi hồn đơn giản mà trong dân gian truyền lại, cậu cơ chỉ dành cho ai gan dạ, dám chơi dám chịu, cần ít nhất 2 người để tham gia cầu cơ. Sau đây là cách vẽ bàn cầu cơ: Lấy tờ giấy A4 để viết câu thần Các ca sĩ thể hiện: Phan Mạnh Quỳnh. Ϲuộc gọi đêm anh ở đâu đến cạnh em ít phút được không Ɲgười ta đã cùng ai chẳng уêu thương riêng em nữa rồi Tự dưng thấу buồn lâу khi tưởng em vẫn đang nhiều đắm saу Thế mới hiểu có ai haу chữ đời Vội chạу xe đến Vay Tiền Nhanh. Dân gian xưa thường quan niệm con người có 3 hồn 7 phách bảy vía. Cổ nhân thường nói nếu con người mất đi hồn phách thì người ta chỉ là một cái xác không hồn. Vậy 3 hồn 7 vía rốt cuộc là gì? Ba hồn là gì? Người xưa quan niệm, con người gồm có phần thể xác và linh hồn. Người ta sở dĩ nói năng, đi lại, sinh hoạt được là nhờ linh hồn trú ngụ ở thể xác nếu không thể xác đó có thể chỉ là một tảng thịt không hồn phách. Khi chết đi, linh hồn rời bỏ thân xác thịt. Thể xác nát vữa, còn linh hồn thì bất tử. Nguyễn Du trong Truyện Kiều viết “Kiều rằng Những đấng tài hoa Thác là thể phách, còn là tinh anh” Thể phách chính là thân xác thịt, tinh anh chính là linh hồn. Thực ra, quan niệm “3 hồn 7 vía” có nguồn gốc từ Đạo giáo. Họ cho rằng con người sống được là nhờ “tam hồn thất phách” này điều chỉnh mọi hoạt động và tư duy. Vụ Thành Tử trong “Thái Vi Linh Thư” viết “Người ta có ba hồn lần lượt là Sảng Linh, Thai Quang, và U Tinh“. Ba hồn này chính là 3 bộ phận tổ hợp thành thần khí của con người. Người ta mất đi một hồn hoặc hai hồn thì vẫn còn có thể sống sót. Nhưng nếu đã mất đi ba hồn thì sẽ trở thành một cái xác không hồn, sống đời thực vật. Làm sao phân biệt một người đã chết hay chưa? Trước đây, căn cứ để đánh giá một người còn sống hay đã chết là kiểm tra xem tim còn đập hay không hoặc còn thở hay không. Tuy nhiên sau đó có rất nhiều trường hợp lạ kỳ xảy ra, tim không đập, cũng không còn hơi thở nhưng sau đó vẫn có thể sống lại mạnh khỏe. Vậy nên, sau này người ta cho rằng chỉ khi não bộ con người bị chết thì người ấy mới được xem là đã tử vong. Thế nhưng có rất nhiều bệnh nhân đã bị chết não, trở thành người thực vật lại được các bác sĩ Trung y cứu sống. Bởi vậy con người hiện đại quả thực không biết làm cách nào để phán đoán một người còn sống hay đã chết. Có khi dù thân xác vẫn sống, vẫn có thể cử động, vẫn có thể ăn uống nhưng thực sự người ta đã chết rồi Thai Quang là một trong ba hồn quan trọng nhất của con người. Nếu một sinh mệnh không còn Thai Quang thì người đó quả thật đã chết. Có câu chuyện kể rằng, một thầy thuốc Trung y khám bệnh cho vị giám đốc nọ. Sau khi bắt mạch và thăm khám liền nói “Ông hãy về nhà chuẩn bị hậu sự đi thôi“. Vị giám đốc nọ nghe thấy hầm hầm tức giận nói “Ông bị điên à. Nếu y thuật của ông cao siêu đến vậy hãy nói thử xem tôi chết vào ngày nào?“. Sau khi thầy thuốc phán ngày tháng cụ thể, vị giám đốc liền nói “Tới ngày đó tôi sẽ làm mấy bàn tiệc tại tiệm cơm Vương Phủ Tỉnh mời ông ăn“. Hai cô con dâu của vị thầy thuốc cũng tốt nghiệp trường Trung y thấy cha nói vậy thì ngại ngần vội vàng giải thích “Cha tôi già rồi nên phán đoán lẩm cẩm, ông đừng để ý lời ông ấy làm gì”. Cho tới khi vị giám đốc nọ đứng dậy trả tiền đi về, thầy thuốc Trung y vẫn khẳng định “Tôi không lấy tiền của người sắp chết”. Và quả nhiên, vị giám đốc thực sự đã không sống qua khỏi ngày mà thầy thuốc đoán trước. Các thầy thuốc Trung y cổ đại thường có kiến thức uyên thâm về cả nhân tướng học. Họ chỉ cần xem phần “Thần”, chính là Thai Quang, của người ta có còn hay không là biết được sinh tử Hồn thứ hai gọi là Sảng linh. Trên thế giới có rất nhiều người sở hữu khả năng tính nhẩm siêu hạng. Lại có những những người có thể nói chính xác thứ của một ngày bất kỳ mà bạn yêu cầu. Điều này không dùng logic tính ra được, đó là một bản năng thiên phú. Sảng linh quyết định trí lực, trí tuệ cũng như phản ứng nhanh chậm của con người. Sảng linh chính là một bộ phận của hồn người. Vì thế Khổng Tử nói “Sinh ra đã biết là đệ nhất, học rồi mới biết chỉ là đệ nhị”. Nhiều người bị thiểu năng trí tuệ, chính là Sảng linh đã bị mất. Hồn thứ ba gọi là U tinh. Nó quyết định tính cách của một người, cũng quyết định việc trong tương lai họ sẽ yêu thương ai. Người ta thường nói “bị ai đó lấy mất hồn”, “tinh thần chán nản”, “hồn xiêu phách tán”… Hồn mà họ ám chỉ ở đây chính là U tinh. Rất nhiều người sau khi thất tình đau khổ tột cùng, nhìn ai cũng không thấy thuận mắt, không muốn gắn bó nữa. Đó là bởi vì U tinh tiêu mất rồi, chính là đã hao tổn, kiệt quệ tinh thần. Vậy khi người ta đi ngủ, những hồn này sẽ ở vào trạng thái nào? Thai quang vốn dĩ chiếu sáng toàn thân nhưng lúc này ánh sáng bắt đầu giảm tối đi, người ta sẽ tiến vào giấc ngủ. Nhưng “phách” của họ vẫn hoạt động. Người xưa nói, gan tàng hồn, phổi tàng phách. Khi người ta chết, phách sẽ rời khỏi thân thể. Vậy phách từ đâu rời khỏi thân thể? Trung y cho rằng thân thể có một cánh cửa, gọi là phách môn, nó là cửa mà phách sẽ rời khỏi thân thể người. Phách môn cũng chính là hậu môn. Bởi thế thời xưa khi cấp cứu người sắp chết thì việc đầu tiên là phải bịt hậu môn lại Thất phách là gì? Đạo giáo quan niệm, thất phách 7 vía của người ta bao gồm Thi Cẩu, Phục Thỉ, Tước Âm, Thôn Tặc, Phi Độc, Trừ Uế và Xú Phế. Người Việt thì có cho rằng Nam có 7 vía, nữ có 9 vía. Điều này có thể xuất phát từ quan niệm thân thể người nam có “thất khiếu” 7 lỗ còn người nữ thì có “cửu khiếu” 9 lỗ. Thất phách này có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc điều tiết cơ thể con người. Mỗi phách lại đảm đương một nhiệm vụ khác nhau như hô hấp, tiêu hóa, sinh sản, nhịp tim… Sách “Xuân vũ dật thưởng” chép rằng, khi mới sinh ra, người ta sống được 7 ngày gọi là Lạp còn gọi là Cữ, lúc ấy mới có 1 vía. Sau 49 ngày thì đứa trẻ mới có đủ 7 vía thành người. Tiếp đó, sau 100 ngày thì đứa trẻ tròn 1 tuổi nghĩa là cộng cả 9 tháng thai nhi trong bụng mẹ. Bé trai đủ 7 ngày, gái 9 ngày gọi là đầy Cữ. Còn trong “Vân đài loại ngữ”, Lê Quý Đôn cũng viết “Tục nước ta sinh con được 3 ngày thì chỉ làm vài mâm cỗ cúng Thuần Dưỡng Bà. Đến ngày thứ 7, thứ 9, đầy 100 ngày thì làm lễ cáo gia tiên, yến tiệc linh đình”. Sau khi người ta chết, cứ 7 ngày là 1 kỳ tang, mất đi 1 vía. Sau bảy lần cúng kỳ tang thì cúng tuần Chung thất, tức là hết vía 49 ngày. Sau 100 ngày là cúng Tốt khốc thôi khóc. Theo quan niệm dân gian, sau 100 ngày, hồn vía người ta đã hoàn toàn thoát ly khỏi thân xác thịt, đã chết thực sự. Khi ấy, người nhà chỉ còn niệm tưởng thương nhớ người đã mất trong lòng mà không khóc nữa. Lễ cúng ngoài mâm cơm chay mặn thông thường, còn cần đèn nhang, bông trái, trà nước. Ngày giỗ đầu gọi là lễ Tiểu tường, giỗ thứ hai là lễ Đại tường. Từ đó về sau, người ta chỉ còn cúng người đã mất vào dịp giỗ và Tết. Trong quan niệm của nhà Phật, vong hồn người chết phải qua 7 lần phán xét, mỗi lần 7 ngày rồi mới được siêu thoát. Tục gọi hồn Khi hồn vía người ta xuất ra khỏi thân xác thịt thì coi như họ đã chết. Một khi đã xuất ra thì không thể quay trở lại. Nhưng cũng có những trường hợp hết sức đặc biệt. Vì một lý do nào đó, hồn vía người ta vẫn có thể nhập trở về thân thể. Bởi vậy, người Việt thường có tục lệ gọi hồn. Dân gian quan niệm, khi ốm nặng hoặc bất tỉnh, trải qua một chấn động khủng khiếp nào đó thì người ta sẽ “mất vía”, hồn phách đột ngột tách ly khỏi thân thể. Đó là tình huống mà người ta vẫn gọi là “hồn xiêu phách tán”. Thân thể người ta sẽ cứng đờ, hai mắt thất thần, đồng tử không động đậy, mồm miệng há hốc hoặc ngậm cứng, đồng thời hơi thở rất yếu, tai ù điếc không nghe thấy âm thanh. Để hoàn lại sự sống cho họ, buộc phải có nghi thức gọi hồn. Người nhà thường trèo lên mái nhà hoặc chạy ra ngã ba đường, vừa đi về vừa gọi hồn vía người bị nạn để mong họ có thể trở lại. Câu gọi hồn quen thuộc là “Bớ ba hồn bảy vía ông… ở đâu thì về với con cháu“. Ở một số trường hợp, cách gọi hồn này tỏ ra khá linh nghiệm. Người đang bất tỉnh nhân sự, mất ý thức có thể dần dần hồi lại, tất nhiên phải kèm theo một số biện pháp chăm sóc y tế đặc biệt khác Vụ Thành Tử viết trong Thái Vi Linh Thư về thuật hoàn phách như sau “Vào nửa đêm các ngày mồng một và rằm của mỗi tháng, 7 phách lêu lổng bên ngoài thân ta, chơi bời với bọn quỷ mị. Cách kiểm soát, chế ngự và gọi phách về hoàn hách là vào những đêm đó phải nằm ngửa, duỗi chân, hai bàn tay che bít hai lỗ tai và để các ngón tay tiếp xúc với gáy, bế hơi thở 7 lần, gõ răng vào nhau 7 lần, tập trung tư tưởng vào đầu mũi. Luồng khí trắng lớn bằng hạt đậu nhỏ, rồi lớn dần dần che kín thân thể trên dưới 9 lần. Khí này bỗng nhiên biến thành 2 con rồng xanh ở 2 mắt và hai cọp trắng ở 2 lỗ mũi, tất cả đều hướng ra ngoài, lại biến thành con chim đỏ ở trên tim hướng ra ngoài cửa miệng người ta“. Sự sống sau cái chết là điều đã được khoa học hiện đại thừa nhận từ lâu. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của thuyết vô Thần, người ta vẫn còn gặp trở ngại trong việc chứng thực sự thực đó. Phật gia quan niệm rằng, sau khi chết, người ta đích thực chỉ mất đi phần xác thịt tức là “thể phách”, còn linh hồn, phần “tinh anh” thì mãi trường tồn, lại đi qua kiếp luân hồi để tái tạo sự sống ở kiếp sau. Đi sang kiếp sau, linh hồn ấy vẫn mang đầy đủ nợ nghiệp và phúc báo ở kiếp trước. Bởi vậy, nếu muốn có được phúc báo thì phải biết gây thiện, tránh ác, tu sửa tâm tính, sống thanh bạch, trung thực ở ngay trong đời này. Kiên Định – Văn Nhược dkn Giải thích Thành ngữ - Tục ngữ Ai đã đọc “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, hẳn không quên hình ảnh chị Dậu chạy ra ngõ hú gọi ba hồn bảy vía anh Dậu “về với vợ con” trong khi anh bị bọn cường hào đánh trói nằm bất tỉnh nhân sự trong nhà. Còn trong dân gian, theo mê tín, khi xem bói bài tây hoặc chữa bệnh bằng mẹo, người ta thường bắt buộc phải tráo quân bài hoặc làm một động tác quy ước nào đó bảy lần với nam và chín lần với nữ. Ấy là do “đàn ông có bảy vía, đàn bà có chín vía”, theo sự mê tín của dân gian. Xưa nay, người bình dân chỉ quan niệm giản đơn rằng, người ta sống là do có tinh thần tức là “hồn vía” nhập vào thể xác. Khi hồn vía lìa khỏi xác thể thì cũng là lúc con người từ bỏ thế giới này mà về nơi “chín suối” với tổ tiên. Tất cả cái tinh anh khí phách của người đàn ông hợp thành ba hồn bảy vía, còn tất cả cái khôn ngoan tháo vát ở người đàn bà hợp thành ba hồn chín vía. Chính vì thế, ở dân tộc Kinh, mỗi khi có người ốm “thập tử nhất sinh” hoặc bị tai nạn “bất tỉnh nhân sự”, tính mạng bị đe dọa thì người ta thường trèo lên mái nhà hoặc chạy ra ngã bảy, ngã ba mà vừa đi về và vừa gọi hồn vía người bị nạn để mong cho họ đừng “bỏ đi” xuống “suối vàng”. Hoặc giả, nếu họ có chết thì hồn khỏi bị lạc đường, bơ vơ dễ sa vào bàn tay bọn ma quỷ “vô lại”, làm công cụ để hại người lương thiện. Sự gọi hồn ấy, tuỳ theo người bị nạn là nam hay nữ mà gọi ba hồn bảy vía hay ba hồn chín vía. Đồng bào dân tộc thiểu số cũng có quan niệm về hồn vía như trên, có điều hồn vía được phân biệt thêm là có vía lành, vía dữ. Khi chết, vía lìa khỏi xác và hồn đi sau cùng. Người Tày, Nùng không gọi hồn như người Kinh, người ta tổ chức hát then, cúng tế để gọi hồn người chết về. Nhưng nguyên do của ba hồn bảy vía và ba hồn chín vía là ở đâu? Tại sao đàn ông lại chỉ có “bảy vía” mà đàn bà lại “chín vía”? Đó là những câu hỏi không dễ giải thích ngọn ngành, chỉ biết rằng từ xưa người Việt đã có quan niệm và xử sự như vậy. Tìm về với tôn giáo, chúng ta thấy sáng rõ được nguồn gốc của quan niệm trên. Thật ra, đó là xuất phát từ quan điểm duy tâm của Đạo Giáo. Theo kinh sách của Lão Tử, hồn là cái linh, thuộc vào phần khí của con người, phách vía là cái linh, phụ thuộc vào phần hình của con người. Hồn là phần khinh thanh nhẹ phách là phần trọng trọc nặng. Vì vậy, khi nguời ta chết, hồn bay về trời, còn phách thì tiêu xuống đất theo thể xác. Hồn thì tồn tại mãi mãi, phách và xác thì sẽ tiêu tan. Đàn ông và đàn bà đều có ba hồn phụ vào tam tiêu tam tiêu là ba miền thượng tiêu là phần trên dạ dày, trung tiêu là miền giữa dạ dày và hạ tiêu là miền trên bàng quan, song chỗ khác nhau giữa đàn ông và đàn bà là Đàn ông có ba hồn và bảy phách phụ vào thất khiếu thất khiếu là bảy lỗ trên mặt hai mắt, hai tay, hai mũi và miệng, còn đàn bà có ba hồn và chín phách phụ vào cửa khiếu là thất khiếu + lỗ sinh dục và hậu môn. Quan niệm về hồn vía ở trên, không ai khác, chính là do các bậc nho học truyền bá và ảnh huởng sâu rộng trong dân gian đến mức người ta chỉ còn biết cái ngọn của nó và tin theo, làm theo. Trở lại với thành ngữ trên, do có nguồn gốc tôn giáo như vậy, mỗi khi gặp một trường hợp “bất tỉnh nhân sự”, cần “cấp cứu” trong khi không có thầy thuốc, người Việt, theo thói quen mê tín, thường hú gọi hồn vía người ấy quay về, đừng bỏ phần xác mà ra đi theo ma quỷ! ← Ba que xỏ lá→ Cáo mượn oai hùm 1. Là xuống tìm linh hồn đó mời họ Là các thầy dùng lệnh để lôi về hoặc nhờ vong khác lôi về. Cách thứ nhất thì chẳng có mấy ai làm được. Người làm được cách đó cả nước này may ra có vàingười. Còn cái cách thứ 2 thì đa số các thầy, cô đều làm, đây chính là cái chết của mấy thầy, đang xem Thầy tùng gọi hồn là aiNhư việc 1 người đang đứng bỗng túm áo lôi đi thì họ đánh cho là phải. Các thầy cô cứ thấy gọi về được tưởng là không sao. Xin thưa là lúc đó phúc thầy cô còn họ chưa làm gì được. Họ chỉ biết mài phúc dần, phúc mỏng thì họ ập vào đánh cho. Thế nên mới thầy cô sau này với gia đình sập từ trên xuống dưới là vì nữa là gọi về nhập vào người thưa là gia tiên không bao giờ muốn nhập vào con và dương không thể cùng chung. Nhập vào sẽ tổn hại cả 2 dương sẽ mất đi dương khí của người đó mà cụ thể hơn là giảm thọ. Những người bị nhập biết rõ nhất, họ rất mệt mỏi sau mỗi lần âm sẽ bị tổn hại cái tu hạnh của người ta. Khi mà người ta có thể tu vài ba năm người ta có thể siêu thì nhập vào rồi sẽ bị giảm đi lại phải một thời gian dài cha mẹ nào muốn tổn hại con cháu đâu,với chân linh gia tiênhọ biết điều đó nên họ không nhập tiên dòng họ có về chỉ ảnh bóng thôi. Tức là với người bị ảnh bóng họ vẫn nhận biết được nhưng có những cái cơ thể họ không điều khiển được. Lúc mà người thân mất bị đau ở đâu hay như nào đôi khi người con cháu đó thấy đau đúng ở vị trí đó và cảm nhận như thế. Người con cháu đó nói ra những điều mà tự họ không muốn nói. Lúc ấy là gia tiên chỉ ngồi cạnh bên mà gia tiên nhập vào chỉ trừ khi có thầy đắc đạo ngồi trợ khí cho họ không để tổn hại hai bên. Mà những thầy như vậy lại không bao giờ đi làm gọi hồn vìtrái quy luật âm tiên thấy con cháu bị nạn muốn cứuTrường hợp nữa là gia tiên thấy con cháu có nạn muốn cứu mà không có cơ duyên gặp người sang tai cho con cháu thì họ về nhập thẳng vào con cháu khi ở trong nhà hoặc ở ngoài mộ chứ chẳng cần đi thầy cô vào rất nhanh rồi ra luôn. Những người nhà bị nhập thế là cái phúc họ đang rất kém rồi nên mới dễ bị nhập như đi gọi hồn gia tiên không nhập thì ai nhập???Vong bình thường họ vào họ chỉ chiếm được xác nhưng không nói được. Quỷ vào thì nói được còn đi lại thấy nhập mà nói đúng lắm cái gì trong nhà cũng biết???Xin thưa có những vong người ta mất cả mấy chục năm cả trăm năm họ vẫn không siêu. Nhà bạn có cái gì họ biết rõ hết kể cả tên gia đình đọc từng người. Chưa kể bạn dám khẳng định xung quanh nhà bạn không có vong nào. Hỏi một cái là ra vào mấy ông thầy bà cô???Xin thưa thế này, mấy ông thầy bà cô một là không biết cho vong vào nói. Hai là họ biết tác hại họ không cho vong vào đâu. Toàn để vong khác đứng ngoài nói cho biết rồi truyền lắc lư thì ngày nào ngồi cũng lắc dẻo ngay ấy mà. Thậm chí có rất nhiều thầy bà không có khả năng, chỉ toàn nói người trong vùng thường không đến xin gọi hồn người âm tại các cô đồng, người gọi hồn cũng không mặn mà gì với những người “quen”. Thành ra họ vẫn thường “ngân nga” rằng do bụt nhà không thiêng nên không gọi hồn được. Đa phần những người đến xin các cô đồng gọi hồn người âm đều từ các địa phương khác. Những người này cũng chỉ nghe đồn thổi về sự cao tay của các cô đồng này mà chưa một lần được tận mắt chứng kiến. Nhiều người vì mê tín, vì sợ phạm lỗi với người khuất và vì sự cái “uy” của các cô đồng nên răm rắp làm theo những gì cô đồng đồng nói, không dám cãi nửa lời…Việc gọi hồn có nên hay không??? thật sự là không giờ một người đã mất rồi đang cố gắng không chấp vào điều gì nữa. Tự dưng con cháu gọi về kêu con biếu thứ này thứ nọ làm cho người ta bỗng dưng nhớ lại cái chấp niệm lại cao lên làm sao mà siêu thoát được. Khác gì đang đi học có người dúi tiền kêu đi chơi chúng ta cần là tích công đức là hồi hướng cho gia tiên và thắp nén hương tưởng nhớ họ. Công đức hồi hướng như là hành trang cho gia tiên trên con đường tu gia tiên luôn nhớ thương con cháu đôi khi họ lộn lại chính là những con vật trong nhà mà mọi người đang nuôi. Đôi khi vì miếng cơm manh áo, tiền đóng học phí của mình hay một món đồ chơi cho mình mà ông bà, bố mẹ phải tạo nghiệp để bị đày xuống thêm Tôi Chu Du Khắp Thế Giới Mà Tôi Vẫn Ở Nguyên Một Chỗ Tôi Là Ai ?Con cháu hãy vì thế mà năng làm việc thiện nguyện để trả ơn gia tiên nhà mình. Chứ đừng u mê gọi hồn làm gì cả. Ở Việt Nam theo tín ngưỡng thì người sống thường có phong tục gọi hồn người chết sau 49 ngày. Nhưng có nhiều câu hỏi thắc mắc đặt ra là Gọi hồn người chết sau 49 ngày và hồn đi về đâu?. Bài viết hôm nay sẽ tìm hiểu để giải đáp thắc mắc này. Gọi hồn người chết sau 49 ngày và hồn đi về đâu? Vì sao phải gọi hồn người chết sau 49 ngày Theo quan điểm Phật giáo Bắc tông, một người sau khi chết có thể lập tức tái sanh đối với người tạo nghiệp cực thiện hay cực ác hoặc trải qua giai đoạn trung gian từ 1 đến 49 ngày rồi tùy theo nghiệp mà tái sanh vào cảnh giới tương ứng. Trừ những trường hợp đặc biệt chết do đột tử, bất đắc kỳ tử thường gọi là chết oan, còn lại đa phần sau 49 ngày các hương linh đều theo nghiệp tái sanh. Còn nếu linh hồn người chết không đi đầu thai được, phải làm cô hồn sống vất vưởng không có nơi nương tựa. Theo giáo lý Nhân quả-Nghiệp báo, những nỗ lực của người thân hướng về hương linh như tạo phước, cầu nguyện chỉ trợ duyên, ảnh hưởng tốt đến hương linh được phần nào thôi chứ không can thiệp sâu vào khuynh hướng tái sanh của họ. Vì mỗi người đều phải thừa tự’ nghiệp lực của chính mình. Để được giải thoát, tự thân hương linh phải tỉnh thức và hướng thiện. Không ai có thể cứu vớt chúng ta ngoại trừ những nỗ lực tu tập của chính chúng ta. Thế Tôn đã dạy “Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi. Hãy tự mình nương tựa hòn đảo chính mình”. Trên nguyên tắc, nếu người nào muốn kiếp sau vẫn trở lại làm người, thì trong hiện kiếp chỉ cần thực hiện Tam Quy và Ngũ Giới một cách trọn vẹn thì khi trở lại làm người sẽ được hưởng phước báu của những người đã giữ giới. Đó là không sát sanh, không trộm cướp, không tà hạnh, không nói dối và không dùng những chất say. Gọi hồn người chết sau 49 ngày và hồn sẽ đi về đâu? Khi thần thức đã theo nghiệp tái sanh vào một cảnh giới tương ứng rồi, tất nhiên phải chịu thọ báo tốt hoặc xấu ở trong cảnh giới ấy. Cho đến khi mãn nghiệp ở cõi ấy, nếu không có duyên lành tu tập giải thoát, thì thần thức lại theo nghiệp tái sanh vào một cõi khác. Cứ thế, chúng sanh luân hồi trong ba cõi sáu đường không cùng tận. Một điều cần biết là người còn sống không nên gọi hồn người thân đã mất. Giả sử gọi được và gọi đúng người thân thì chúng ta cũng chẳng giải quyết được vấn đề gì. Vì giải thoát khổ đau phải do tự thân mỗi người thực hiện. Đó là chưa kể đến các trường hợp gọi không được hoặc gọi không đúng thì càng làm cho vấn đề phức tạp thêm. Các “hương linh” tiếp xúc với nhà ngoại cảm hầu hết là những chúng sanh trong loài ngạ quỷ quỷ thần và một số các thần thức chưa tìm được cảnh giới thọ sanh. Điều này chúng ta cần hết sức lưu ý vì giáo lý đạo Phật không đề cập đến cõi âm mà chỉ nói đến lục đạo trời, a tu la, người, súc sanh, ngạ quỷ và địa ngục cùng thân trung ấm thân trung gian sau khi chết mà chưa hội đủ duyên để tái sanh. Do đó, nếu các hương linh tiếp xúc với nhà ngoại cảm thì chắc chắn họ chưa giải thoát, có thể họ đã tái sanh vào ngạ quỷ loài đông nhất trong lục đạo, sống gần gũi và có thể giao tiếp, thọ hưởng vật thực loài người dâng cúng. Theo Phật giáo, con người sau khi chết theo nghiệp tái sanh trong lục đạo chứ không ở trên bàn thờ. Người Phật tử lập bàn thờ để tưởng nhớ, tri ân và cầu nguyện cho ông bà cha mẹ quá vãng chứ không phải là thiết lập nơi tọa ngự cho chư Phật giáo, con người sau khi chết theo nghiệp tái sanh trong lục đạo chứ không ở trên bàn thờ. Người Phật tử lập bàn thờ để tưởng nhớ, tri ân và cầu nguyện cho ông bà cha mẹ quá vãng chứ không phải là thiết lập nơi tọa ngự cho chư vị. Do vậy, khi người thân mất đi, trách nhiệm của chúng ta là tận tâm dốc lòng cầu nguyện và tạo phước để hồi hướng, mong họ siêu thoát. Còn siêu thoát hay không là do sự tỉnh thức chuyển hóa nghiệp lực của chính họ, thân nhân chỉ trợ duyên mà không thể can thiệp được. Cho nên, không cần gọi hồn, triệu hồn, cầu hồn hay các phương pháp tương tự vì không mang đến lợi ích thiết thực cho hương linh và chỉ tốn kém, gây lo lắng hoang mang thêm cho thân nhân. Bài viết Gọi hồn người chết sau 49 ngày và hồn đi về đâu? đã tìm hiểu được một số thông tin liên quan đến thắc mắc về việc gọi hồn người chết sau 49 ngày. Mong rằng những thông tin này đã giải đáp được một số thắc mắc về vấn đề gọi hồn người chết sau 49 ngày và hồn đi về đâu. TẾT NÓI CHUYỆN LINH HỒN… “Năm nay đào lại nở Không thấy Ông Đồ xưa Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ?” Bài thơ được đặt trong dòng Thơ Mới’ bên cạnh các tác phẩm nổi tiếng của Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Nhược Pháp, Xuân Diệu… Tuy nhiên thời thế đã thay đổi và người ta không chỉ buồn bã khi chỗ ông đồ xưa vẫn ngồi đã trống vắng mà còn cảm hoài, thậm chí đau đớn, vì bao nhiêu chuyện, bao nhiêu cảnh đời đã mất hẳn. Cảnh các ông đồ nho ngồi viết thuê chữ, câu đối Tết mỗi độ xuân về cứ mai một dần đến lúc chỉ còn là hoài niệm… Nhưng đối với tôi, hai câu cuối làm tôi trăn trở khôn nguôi “Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ?” “Hồn” ở đây, ngoài ý nghĩa hồn thơ, cốt cách, văn phong, văn hóa, triết lý cuộc đời, nhân tình thế thái, tinh túy của tác phẩm, sự sống còn của bài thơ… mà dưới nhãn quan của người tin Chúa, thì “Hồn” phần linh của con người nó đang ở đâu, khi Ông Đồ không còn hiện hữu. Đây là một câu hỏi lớn, một vấn nạn muôn thủa mà con người không có lời giải đáp thỏa đáng, duy chỉ có Thánh Kinh lời mặc khải từ Thượng Đế con người mới hiểu thấu được. Đời người ngắn ngủi chóng qua, và đáp số cuối cùng là sự chết, thi sĩ Tản Đà ghi lại mấy vần thơ đầy bi quan, ông ngẫm nghĩ đời người mỏng manh như cánh phù du của các loài hoa cỏ như sau “Hoa ơi! hoa hỡi hoa hời! Đang ở trên cành bỗng chốc rơi Nhụy mềm cánh úa Hương nhạt màu phai Sống chữa bao lâu đã hết đời”. Thưa các bạn thân mến! Một tia sáng lóe lên cuối đường hầm, một niềm hy vọng lớn lao được kích hoạt, một thiên lộ được khải tỏ, một con đường đã được mở ra trong Chúa Cứu Thế Giê-su, một câu trả lời đầy thẩm quyền của Đấng tạo hóa, cho câu hỏi “Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ?” được trả lời sau đây Khi linh hồn ra khỏi thể xác, thì con người mất sự sống, tức là họ đã chết, họ sẽ về bên kia thế giới, thử hỏi lúc này linh hồn sẽ đi về đâu? Mọi người đang dò tìm và Huy Cận cũng không ngoại lệ. Trong một bài thơ có tên Huy Xuân, nhà thơ Huy Cận viết tặng cho Xuân Diệu khi ông còn ở Sầm Sơn 27/07/1986, rất tiếc Xuân Diệu chưa nhận được, vì ông ra đi trước đó 7 tháng, sớm quá “Biển lớn băng qua ấy biển đời Biển vào vũ trụ ánh sao mời Diệu dò thế giới bên kia trước Khỏi lạ đường đi Cận tới nơi”. Trịnh Công Sơn thì than thở trong một bài hát có tên Đời gọi em biết bao lần “Đi về đâu hỡi em Khi trong lòng không chút nắng”… …và rồi Trịnh Công Sơn ra đi ngày 01/04/2001 mà không hề chuẩn bị cho chuyến ra đi đời đời của mình. Phan Khôi, một nhà văn, một nhà thơ, một nhà báo kỳ cựu, một học giả uyên thâm, người cùng giáo sĩ Candman đã bỏ ra ít nhất năm năm để dịch thuật Kinh Thánh ra Việt ngữ cho Hội Thánh Tin Lành Việt Nam và hoàn thành năm 1926, gần 100 qua tín hữu Tín Lành trong nước và hải ngoại đều yêu mến bản Kinh Thánh truyền thống này, vậy mà ông chưa từng tiếp nhận Chúa, tiếc lắm thay! Kinh Thánh lời Đức Chúa Trời cho biết – “…và bụi tro trở vào đất y như nguyên cũ, và thần linh trở về nơi Đức Chúa Trời, là Đấng đã ban nó.” Truyền-đạo 127 – Khải-huyền 1413, “Tôi nghe có tiếng đến từ trên trời rằng Hãy viết lấy Từ rày, phước thay cho những người chết là người chết trong Chúa!” Sự chết cho người không tin Chúa là một thảm họa là một án phạt, sự chết thể xác dẫn đến sự chết tâm linh và sự chết đời đời phân rẽ với Đấng Tạo hóa mãi mãi ở nơi cực hình. Sự chết của người tin Chúa là một giấc ngủ chờ đợi sự cứu chuộc của Chúa Jêsus-Christ để bước vào sự sống vĩnh cửu, khi ngày Chúa Jêsus-Christ tái lâm chung kết cõi đời. … Một cụ già nằm trên giường bệnh được chuyển đi trên hành lang trong một nhà thương, bà ngoáy cổ lên và nói với cô y tá “Các cô ơi! thông cảm cho… vì tôi đã ngoài 93 tuổi rồi”… bà thổn thức “Tôi không trẻ lại được nữa, vì đời người là một con đường một chiều đi từ lúc sinh ra cho đến lúc chết, trên con đường đó không ai có thể trở lại được.” Nhưng thưa quý vị cùng các bạn! Con đường một chiều không phải là một con đường cụt không lối thoát, mà là con đường dẫn đến một hướng nhất định. Mời bạn bước vào con đường ấy – Chúa Jêsus Christ đã phán “Chính Thầy là đường đi chân lý và sự sống, không có ai đến với Thượng Đế mà không qua Thầy”. Giăng 146. Vậy, quý vị và các bạn đã nghe lời nầy, mà bằng lòng tin nhận Chúa Jêsus-Christ ngay hôm nay, thì Ngài sẽ ngự vào lòng Qúy vị và các bạn ngay tức khắc. Ngài sẽ ban cho quý vị và các bạn một cuộc sống vĩnh phúc. Mời bạn bước vào cuộc sống mới như như lời Ngài đã hứa “Nhưng hễ ai đã tiếp nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền phép để trở nên con cái Đức Chúa Trời, là ban cho những kẻ tin danh Ngài.” Giăng 112. Ước mong qúy vị và các bạn tìm gặp được Chúa trong cuộc đời ngắn ngủi ở trần gian này. Lời Chúa hứa là thành tín, vẫn còn nguyên vẹn trong Thánh Kinh “Các ngươi tìm và gặp Ta, khi các người tìm kiếm ta cách hết lòng”. Giê-rê-mi 2913 Kính chúc qúy vị và các bạn một năm mới 2021 nhiều may mắn và gặp được Chúa xuân đích thực trong cuộc đời của mỗi một chúng ta! Hồ Ga-li-lê- Xuân 2021.

gọi hồn ở đâu