hÀi hÒa giỮa bẢo vỆ mÔi trƯỜng vÀ phÁt triỂn kinh tẾ - xà hỘi - Với quyết tâm chính trị cùng với nhiều thuận lợi như vậy thì vẫn có những thách thức cho Quảng Trị là làm sao vừa hình thành, phát triển trung tâm năng lượng, vừa phải bảo vệ môi trường và theo đuổi 27/08/2015 14:29 PM. Xã hội tri thức là một kiểu xã hội dựa trên việc không ngừng sản xuất và sử dụng hàng loạt tri thức trong mọi lĩnh vực, với sự trợ giúp của công nghệ thông tin và truyền thông hiện đại, để phát triển con người trên toàn hành tinh một cách công Nữ trí thức Yên Bái giữ vững vị thế xã hội. YênBái - Những năm qua, phụ nữ các dân tộc tỉnh Yên Bái luôn phát huy tinh thần đoàn kết, năng động, sáng tạo, góp phần quan trọng xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, giữ vững an ninh chính trị, trật 2.Vai trò của tri thức trong xã hội. Tri thức có thể hiểu là sản phẩm đặc thù của xã hội, sự ra đời của tri thức thường gắn liền với sự hình thành của xã hội loài người. Do đó, không thể tách trí thức ra khỏi xã hội để định nghĩa xem tri thức là gì cũng như Nghi thức xã hội [ sửa | sửa mã nguồn] Nhiều xã hội sẽ được phân bổ rộng hơn, làm theo mệnh lệnh chỉ thị của những cá nhân hay nhóm người khác lớn hơn. Sự rộng lượng này được tìm thấy ở sự hiểu biết về văn hóa; điển hình là uy tín và vai trò văn hóa sinh ra Vay Tiền Nhanh. Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ Nội dung Text Tìm hiểu về xã hội tri thức Phần 1 NGUYỄN VẢN DÂN Diện mạo và triển vọng CỦẤ Xà HỘI TRI THỨC NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUốC GIA - sự THẬT Hà Nội - 2015 LỜI NHÀ XUẤT BẢN Khoảng vài thập niên gần đây, những tác động mạnh mẽ của các tiến bộ khoa học, công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và truyền thông đã làm cho thế giới chuyển biến tói một xã hội và nền kinh tế mà ở đó thông tin và tri thức được xem là nguồn lực chủ yếu. Điều này tác động mạnh mẽ đến tất cả các nước, nhất là các nưốc đang phát triển. Chúng ta ngày càng nhận thấy rằng xã hội tri thức có một tầm ý nghĩa rất quan trọng đôl với sự phát triển của loài người, nhưng để tiến tới xây dựng một xã hội tri thức, loài người đang phải vượt qua nhiều thách thức và trở ngại, trong đó có sự cách biệt sô", tình trạng bất bình đẳng trong việc tiếp cận giáo dục, sự mâu thuẫn giữa quyền sở hữu trí tuệ vối quyền được chia sẻ tri thức của mọi người dân,... Vối mong muôn giúp bạn đọc cũng như các nhà nghiên cứu hiểu rõ hơn thế nào là một xã hội tri thức theo quan niệm mối nhất của quốc tế và làm thế nào để có thể xây dựng được một xã hội tri thức bền vững, Nhà xuất bản Chính trị quôc gia - Sự thật xuất bản cuôn sách D iện m ạ o và triển v ọ n g củ a xã h ộ i tri th ứ c của Nguyễn Văn Dân cuô'n sách đã được xuất bản lần đầu tại Nhà xuất bản Khoa học xã hội, năm 2008. Cuồn sách sẽ là tài liệu tham khảo rất có giá trị cho các nhà hoạch định chính sách, các nhà nghiên cứu về xã hội tri thức - một lĩnh vực đang từng bước khẳng định vai trò và vị trí trong đòi sông hiện đại ngày nay. Nội dung cuô'n sách hệ thông hóa lại các quan điểm về đặc trưng của xã hội tri thức, làm rõ bản chất và phân tích vai trò của xã hội tri thức đôì với sự phát triển bền vững, qua đó trình bày một số suy nghĩ về con đường phát triển xã hội tri thức ở Việt Nam. Những vấn để do tác giả luận giải khá rộng và vẫn còn có những ý kiến đánh giá khác nhau trong giối nghiên cứu trong và ngoài nước. Đổ bạn đọc thuận tiện khi nghiên cứu, tham khảo, chúng tôi cô" gắng giữ nguyên chính kiến và các luận chứng của tác giả và coi đây là quan điểm riêng. Rất mong bạn đọc góp ý kiến để lần xuất bản sau nội dung cuô"n sách hoàn thiện hớn. Tháng 3 năm 2015 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - sự THẬT Mở đầu Xà HỘI THÔNG TIN HAY Xà HỘI TRI THỨC? Ngày nay, trên sách báo trong và ngoài nước đang xuất hiện hai khái niệm khi thì đưỢc dùng để chỉ một kiểu xã hội hiện đại, khi thì được dùng để chỉ hai giai đoạn phát triển của nó; “xã hội thông tin” và “xã hội tri thức”. Thực tế, hai khái niệm này đang được hiểu và cần phải được hiểu như thế nào? Đây là hai khái niệm xuâ't hiện từ khoảng thập niên 1960, khi công nghệ thông tin đã làm một cuộc cách mạng để tạo ra một kiểu xã hội mới, xã hội hậu công nghiệp. Từ đó người ta bắt đầu nói đến một thời đại thông tin. Bên cạnh hai thuật ngữ “xã hội thông tin” và “xã hội tri thức”, người ta còn nói đến “xã hội số” hay “xã hội kỹ thuật số”i “xã hội mạng”, “xã hội học tập” hay “xã hội học hành”, có người còn dịch là “xã hội học hỏi”, “xã hội dựa trên tri thức”... Nhìn chung, các thuật ngữ này đều xoay quanh hai đặc trưng chủ chốt là “thông tin” và “tri thức”. Sự thực là thuật ngữ “xã hội tri thức” xuất hiện sau thuật ngữ “xã hội thông tin” và “xã hội học tập” tiếng Anh “knọwledge society”, “information society”, “learning society”. Theo nhiều nguồn tài liệu thì người đầu tiên đưa ra thuật ngữ “xã hội tri thức” là nhà khoa học người Mỹ Peter Drucker trong công trình Thời đại gián đoạn. Dường hướng cho xã hội đang thay đổi của chúng ta The Age o f Discontinuity. Guidelines to our Changing Society, xuất bản tại New York Harper & Row năm 1969. Từ đó, xã hội tri thức tiếp tục được bàn luận song song với xã hội thông tin và xã hội học tập, và đến thập niên 1990 thì nó được khẳng định. Đặc biệt là sang đến đầu thế kỷ XXI, vấn đề về xã hội tri thức đã thu hút được sự hỢp tác nghiên cứu của các nhà khoa học và sự quan tâm của các tô chức quốc tế, đặc biệt là các tổ chức của Liên hỢp quốc. Từ ngày 10 đến ngày 12-12-2003, theo kế hoạch của Đại hội đồng Liên hỢp quốc, Liên hiệp Viễn thông Quốc tế của Liên hỢp quốc ITU đã tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh thế giới vể Xã hội Thông tin giai đoạn I tại Giơnevơ, Thuỵ Sĩ. Và để phục vụ cho công tác trù bị của Hội nghị này, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên hỢp quốc UNESCO đã cho công bố hai văn kiện quan trọng - Thông cáo của Hội nghị bàn tròn cấp bộ trưởng “Hướng tối các xã hội tri thức” “Tovvards Knowledge Societies”, và - Bản báo cáo Từ xã hội thông tin đến xã hội tri thức From the Inỉorm ation Society to KnowIedge Societies. Trong bản thông cáo “Hướng tối các xã hội tri thức” của Hội nghị bàn tròn cấp bộ trưởng của Đại hội UNESCO, UNESCO đã nhấn mạnh “...việc sử dụng các công nghệ thông tin - truyền thông để xây dựng xã hội tri thức cần phải hướng tối sự phát triển con người dựa trên các quyền con người”*. Rồi từ ngày 16 đến ngày 18-11-2005, Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Xã hội Thông tin giai đoạn II đưỢc tổ chức tại Tuynít, thủ đô của Tuynidi. Tại Hội nghị lần này, cộng đồng quốc tế đã nỗ lực muốn đạt được một quan điểm chung về một bộ khung thích hỢp cho một xã hội dành cho tất cả mọi người. Nhân dịp này, các học giả Đức đã nhân danh xã hội công dân Đức soạn thảo một bản Hiến chương vê quyền công dân vì m ột xã hội tri thức bền vững trình lên Hội nghị, trong đó các nhà khoa học Đức nhấn mạnh “Một xã hội trong đó chế độ sở hữu trí tuệ đang biến tri thức thành một nguồn tài nguyên khan hiếm thì không phải là một xã hội bển vững”^. Như vậy, ngay khi diễn ra Hội nghị Thượng đỉnh Thế giối về Xã hội Thông tin, thì các nhà khoa học đã khuyến cáo rằng, để khắc phục những nhược điểm của xã hội thông tin, chúng ta phải chuyển sang xã hội tri thức, và ngay bây giò, loài người phải chú trọng đến việc xây dựng xã hội tri thức, nền tảng của xã hội bền vững. Và cũng ngay trong năm 2005, UNESCO đã xuất bản một Báo cáo Thế giối mang tên Hướng tới cấc xã hội tri thức, dài 226 trang, trong đó các tác giả nhấn mạnh yêu cầu phải chuyển từ xã hội thông tin sang xã hội tri thức, với một nguyên tắc 1. Trích theo UNESCO; Towards Knowledge Societies UNESCO World Report 2005 “Hướng tối các xã hội tri thức- Báo cáo thê giới của UNESCO 2005”, UNESCO Publishing, Paris, 2005, p. 28. 2. Charter of civil rigbts for a sustainable knovỉỉedge society A contribution of German civil society for the world summit on the iníormation society Geneva 2003 - 'hinis 2005, cơ bản là tri thức cần p h ải được chia sẻ cho mọi người dẫn trên t h ế giới. Theo UNESCO, xã hội tri thức có một tính ưu việt so vối xã hội thông tin là Trong khi xã hội thông tin vẫn dựa trên nguyên tắc trao đổi mua bán của nền kinh tê thị trường thông tin đưỢc coi là hàng hoá; thì xã hội tri thức dựa trên một nguyên tắc đạo đức học mới mang tính dân chủ, dân quyền và nhân quyền tri thức cần phải được coi là tài sản chung của nhân loại, mọi người dân đều có quyền được tiếp cận. Điều này sẽ biến xã hội tri thức thành phương tiện để loài người xây dựng một xã hội bển vững và phát triển con người bền vững. Đây là xu hướng phù hỢp với trào lưu chung hiện nay của toàn cầu hoá trào lưu hướng tới dân chủ, dần quyền và nhân quyền. Đe tiến tới xây dựng một xã hội tri thức, loài người đang phải vượt qua rất nhiều thách thức và trở ngại đó là sự cách biệt sô", là tình trạng bất bình đẳng trong việc tiếp cận giáo dục, dẫn đến tình trạng cách biệt và loại trừ về mặt tri thức giữa miền Bắc và miền Nam, giữa các nước phát triển với các nưốc đang phát triển và trong lòng mỗi một xã hội. Xã hội tri thức cũng sẽ phải giải quyết vấn đề về sự mâu thuẫn giữa quyền sở hữu trí tuệ - một quyển lợi trọng tâm của xã hội thông tin - với quyền được chia sẻ tri thức của mọi người dân. Chúng ta tưởng rằng với quá trình toàn cầu hoá, cùng với các thể chế mang tính áp đặt phổ biến của nó như Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, quyền sở hữu trí tuệ sẽ ngày càng trở thành tiêu chuẩn đôl xử giữa các xã hội. Thế nhưng cùng với sự xuất hiện của xã hội tri thức, quyền sở hữu trí tuệ sẽ được nhìn nhận dưói một ánh sáng 10 khác mà dựa vào đó loài người sẽ phải giải quyết vấn đề này theo một hướng phát triển bền vững hơn. Rõ ràng, xã hội tri thức đang mở ra cho chúng ta những đường hướng mối chưa từng có cho sự p h át triển con người theo quan điểm nhân đạo. * Trong những năm gần đây, Việt Nam cũng đã nói nhiều đến chủ đề xã hội thông tin, nhưng chủ đề xã hội tri thức được đề cập rất ít. Có một sô" bài tạp chí lẻ tẻ đã để cập đến xã hội tri thức, nhưng chưa có cuô"n sách nào bàn chuyên về xã hội tri thức. Mặt khác, các tác giả trong nước chủ yếu vẫn nhìn xã hội tri thức từ góc độ kinh tế. Trong gần 10 năm trở lại đây, một loạt cuôh sách viết về kinh tế tri thức và xã hội thông tin đã đưỢc công bố. Chúng tôi xin đơn cử một số cuô"n sách như; Nền kinh t ế tri thức Nhận thức và hành động. Kinh nghiệm của các nước p h át triển và đang phát triển, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 2000, 216 trang; Kinh t ế tri thúc - vấn đ ề và giải pháp Kinh nghiệm của các nước đang p h á t triển Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, Nhà xuất bản Thông kê, Hà Nội, 2001, 239 trang; Kinh t ế tri thức - Những k h á i niệm và vấn đ ề cơ bản Đặng Mộng Lân, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 2001, 142 trang; Kinh t ế tri thức - xu t h ế mới của xã hội t h ế k ỷ XXI Sách tham khảo, Ngô Quý Tùng, Nhà xuất bản Chính trị quốíc gia, Hà Nội, 2000, 400 trang; P hát triển kinh t ế tri thức Rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá Đặng Hữu Chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 11 2001, 387 trang; Quản lý công nghệ trong nền kinh tê tri thức Đặng Nguyên, Thu Hà, Nhà xuất bản Hà Nội, Hà Nội, 2002, 318 trang; Nhà nước với p h á t triển kinh t ế tri thức trong bối cảnh toàn cầu hoá Nguyễn Thị Luyến Chủ biên, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 2005, 329 trang; Ai sở hữu kinh t ế tri thức? Tiếng nói bè bạn, Sách tham khảo, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, 187 trang; Tri thức, thông tin và p h á t triển Viện Thông tin Khoa học xã hội, Bùi Biên Hoà Chủ biên, Viện Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000, 370 trang; Hội thảo khoa học “Kinh t ế tri thúc và những vấn đ ề đặt ra đôĩ vói Việt N anỉ’ Ban Khoa giáo Trung ương - Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường - Bộ Ngoại giao, Hà Nội, 2000, 259 trang; Những vấn đ ề về kinh t ế tri thức Tư liệu chuyên để, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2000, 4 tập; Thời đại kinh t ế tri thức Sách tham khảo, Tần Ngôn Trước - Trần Đức Cung - Nguyễn Hữu Đức dịch, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, 464 trang; Những thách thức của sự p h á t triển trong xã hội thông tin Viện Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002, 208 trang; Bước chuyển sang nền kinh t ế tri thức ở m ột s ố nước trên t h ế giới hiện nay Lưu Ngọc Trịnh Chủ biên, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 2002, 444 trang; Kinh t ế tri thức ở Việt Nam Quan điểm và giải pháp p h á t triển Vũ Trọng Lâm Chủ biên, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 2004, 284 trang; Môi trường xã hội nền kinh t ế tri thức Những nguyên lý cơ bẩn Sách chuyên khảo chuyên ngành Xã hội học tri thức, Trần Cao Sơn, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 12 Hà Nội, 2004, 219 trang; Kinh t ế tri thức với công cuộc p h á t triển ỏ Việt Nam Vương Liêm, Nhà xuất bản Thanh niên, Thành phốHồ Chí Minh, 2004, 291 trang; Kinh t ế tri thức - Thời cơ và thách thức đối với sự p h át triển của Việt Nam Đặng Hữu, Nhà xuất bản Chính trị quốíc gia, Hà Nội, 2004, 318 trang. Như vậy, mối quan tâm chính của các nhà nghiên cứu và quản lý của Việt Nam mối chỉ tập trung vào kinh t ế tri thức và xã hội thông tin. Đành rằng kinh tế tri thức là một trong những cột trụ của xã hội tri thức trong tương lai, nhưng, theo quan điểm mối đây của nhiều học giả và tổ chức quốc tế trên thế giới, thì kinh tế tri thức không phải là tất cả xã hội tri thức. Nói một cách khác, nhiều tác giả trong và ngoài nước ta vẫn thiên về xu hưống đồng nhất xã hội tri thức với xã hội thông tin và với kinh t ế tri thức, vẫn thiên về việc chú trọng đến vai trò của công nghệ thông tin mà ít có ý thức về các khía cạnh xã hội, chính trị, giáo dục và đạo đức của “xã hội tri thức”’, trong khi đó, những khía cạnh này cũng là những khía cạnh chủ chốt của xã hội tri thức. Có thể nói, những bài báo viết về xã hội tri thức của nưốc ta chưa cập nhật được quan niệm mới nhất của quốc t ế về xã hội tri thức. Vì thế, chúng tôi thực hiện công trình này vối mục đích Thông tin khách quan về quan điểm của các nhà khoa học 1. Về vấn đề này, có thể tham khảo bài viết “Xã hội tri thúc và vài suy n gh ĩ v ề con dường hội nhập" của Diễn đàn Công nghệ thông tin Thành phố Hồ Chí Minh, 1999, đăng trên ngày 4 -5 -2 0 0 3 . 13 trên thế giới về xã hội tri thức, vể những vấn đề và những lĩnh vực liên quan đến xã hội tri thức trong đó tất nhiên phải có lĩnh vực xã hội thông tin và kinh tê tri thức, là những lĩnh vực vẫn được nhiều người đồng nhất với xã hội tri thức; về những đặc điểm của xã hội tri thức cùng những thách thức và triển vọng đốì với sự phát triển thế giới nói chung và của xã hội Việt Nam nói riêng; góp phần tạo lập cơ sở lý luận cho việc tiến tói xây dựng một xã hội tri thức ở Việt Nam, đưa nưốc ta hội nhập với xu thế phát triển của thế giối. 14 Ch ương I TỪ Xà HỘI THÔNG TIN ĐEN Xà HỘI T R I THỨC 1. Sự chổng chéo giữa hai khái niệm Trước hết chúng tôi phải nói rõ thêm rằng, thuật ngữ “xã hội thông tin” hay “xã hội tri thức” không nằm trong hệ thôhg khái niệm thuộc hệ thông phát triển của hình thái ý thức xã hội theo lý thuyết về quan hệ sản xuất của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Cũng giống như mọi sự vật, xã hội có thể được tiếp cận từ nhiều góc độ. Từ mỗi góc độ ta lại có thể phân loại và phân cấp xã hội theo một hệ thống khác. Đứng từ góc độ của lý thuyết quan hệ sản xuất, chúng ta có các hình thái ý thức xã hội như xã hội cộng sản nguyên thuỷ, xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, xã hội tư bản, xã hội xã hội chủ nghĩa, xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đứng từ góc độ tôn giáo người ta có thể nói đến xã hội Cơ Đốc giáo, xã hội Phật giáo, xã hội Nho giáo, xã hội Hồi giáo... Và đứng từ góc độ văn minh, người ta nói đến sự chuyển biến theo dòng lịch sử từ xã hội nông nghiệp lên xã hội công nghiệp, đến xã hội hậu công nghiệp hay xã hội thông tin, và tiếp 15 đến sẽ là xã hội tri thức. Đó là chưa kể đến việc người ta có thể lấy tên gọi của dân tộc để đặt cho xã hội của một quốc gia xã hội Mỹ, xã hội Nga, xã hội Trung Quốc, xã hội Việt Nam... Còn thuật ngữ “xã hội công dân”^ thì không phải là để chỉ một kiểu hình thái xã hội, mà là một thuật ngữ đưỢc dùng để chỉ tập hỢp các cá nhân và tổ chức trong quan hệ phân biệt vối nhà nước. Về' điều này, chúng tôi s ẽ trình bày thêm ỏ chương II. Tuy nhiên, các hệ thống xã hội khác nhau của các góc độ tiếp cận khác nhau không trùng khớp hoặc loại trừ nhau hay phải có quan hệ với nhau. Nghĩa là xã hội nông nghiệp không nhất thiết trùng khớp chỉ với xã hội phong kiến, xã hội thông tin hay xã hội tri thức không nhất thiết phải trùng khớp với xã'hội tư bản hay với xã hội cộng sản. Không nhất thiết phải quan niệm rằng khi ta nói đến các kiểu xã hội theo góc độ văn minh thì ta phải loại trừ các kiểu xã hội theo góc độ quan hệ sản xuất. Cũng không nhất thiết khi nói đến xã hội tri thức, chẳng hạn, thì phải xét xem nó có liên quan gì đến các hình thái xã hội, hoặc nó có tương ứng với một hình thái xã hội nào đó trong hệ thống các hình thái xã hội xét theo góc độ quan hệ sản xuất hay không. Nghĩa là ta phải quan niệm rằng các góc độ tiếp cận đa dạng chỉ có ý nghĩa bổ sung góc nhìn cho nhau mà thôi. * Nói đến xã hội thông tin, người ta thường hình dung đó là một xã hội dựa trên những ứng dụng phổ biến của các 1. Một thuật ngư có xuất xứ từ tiếng nưóc ngoài, còn được dịch là “xă hội dân sự”. 16 công nghệ thông tin và truyền thông mới, tức là công nghệ máy tính điện tử và kỹ thuật số, mà đỉnh cao là công nghệ internet. Với các công nghệ thông tin và truyền thông mới này, nhiều người đã nói đến một cuộc cách mạng thông tin lần thứ năm do thời đại thông tin đem lại từ giữa thế kỷ XX, sau bốn cuộc cách mạng đã diễn ra trong lịch sử nhân loại với sự xuâ't hiện lần lượt của tiếng nói, chữ viết, kỹ thuật in ấn, các thiết bị truyền thông bằng điện và điện tửh Song, cũng có nhiều người dưới sự tập hỢp của UNESCO lại gọi cuộc cách mạng của những công nghệ mối ngày nay là cuộc cách m ạng công nghiệp lần thứ ba, m ột cuộc cách m ạng sô' tạo ra những vật vô hỉnh và m ạng liên k ết toàn cầu, sau cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất vối sự thay thê của máy móc cho lao động chân tay, và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai với việc phát triển công nghiệp dịch vụ^. Có thể nói, dù được xác định bằng tên gọi là cuộc cách mạng thông tin lần thứ năm hay cách mạng công nghiệp lần thứ ba, thì trong suốt nửa thế kỷ qua, các công nghệ thông tin và truyền thông mới vẫn đang phát huy sức mạnh của nó, và ngày nay càng phát huy mạnh mẽ hơn bao giò hết. Đứng từ góc độ khoa học và công nghệ, xã hội thông tin được coi là một kiểu xã hội có các lĩnh vực hoạt động dựa 1. Xem Bùi Biên Hoà; “Toàn cầu hoá kinh tê dưới tác động của cuộc cách mạng thông tin lần thứ năm”, in trong N hững vấn đ ề của toàn cẩu hoá kinh tê’Nguyễn Văn Dân chủ biên, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001, tr. 124 -158; Phạm Thị Ngọc Trầm “Cách mạng thông tin - công nghệ và nền văn minh”, ngày 12-12-2005. 2. Xem UNESCO; Towards Knowledge Societies, Tlđd, tr. 5, 18, 24, 27, 45. 17 ! trên các công nghệ thông tin và truyền thông. Đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, công nghệ thông tin đang đóng một vai trò quan trọng, tạo ra những sản phẩm có hàm lượng thông tin cao. Nền kinh tế đó được gọi là nền kinh tế mới, còn đưỢc cụ thể hoá bằng những tên gọi như kinh tê mạng, kinh tế sô", kinh tế thông tin, hay kinh tê dựa trên tri thức, và cuổì cùng được gọi ngắn gọn là kinh tế tri thức. Một sô" ngành công nghệ cao hiện nay đang được coi là những ngành mũi nhọn của nền kinh tê mới này. Chính vì vậy, trong quan niệm của nhiều người, xã hội thông tin cũng đồng nghĩa với xã hội tri thức, và xã hội tri thức lại đồng nghĩa với kinh tế tri thức. Việc đồng nhất khái niệm xã hội thông tin với xã hội tri thức không chỉ diễn ra ở Việt Nam, mà ngay cả trên thê" giới, hai khái niệm này vẫn được nhiều người dùng lẫn cho nhau. Điều này xuất phát từ một thực tê" là bản thân “thông tin” và “tri thức” là hai khái niệm khó có thể phân biệt rạch ròi. Trong tập 1 của cuô"n sách The Iníorm ation Age Economy, Society and Culture Thời đại thông tin Kinh tế, xã hội và văn hoá, xuất bản năm 1996, Manuel Castells đã định nghĩa “thông tin” là “dữ liệu được tổ chức và đưỢc truyền thông”, ông cũng nhắc lại định nghĩa đơn giản nhưng tương đô"i mang tính mở của Daniel Bell thông tin là “một tập hỢp những lời tuyên bô" về các sự việc hoặc ý tưởng, đưa ra một sự phán xét có lý hoặc một kết quả thực nghiệm, được truyền đi cho những người khác thông qua một phương tiện truyền thông nào đó theo một hình thức hệ thông nhâ"t định”. Như vậy, theo Castells, thông tin và 18 tri thức là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau, tuy nhiên chúng cùng chia sẻ những đặc điểm chung, bao gồm việc tổ chức và truyền thông dữ liệu. Xã hội tri thức nhấn mạnh nhiều hơn đến khả năng sản sinh và tích hỢp tri thức mói, và đến khả năng tiếp cận thông tin, tiếp cận tri thức, dữ liệu và một tập hỢp rộng lớn các bí quyết nghề nghiệph Trong cuốn sách Kinh t ế tri thức Những k h á i niệm và vấn đê cơ bản, xuất bản năm 2001, trên cơ sở tổng hỢp các quan điểm của các học giả nưốc ngoài, nhà nghiên cứu Đặng Mộng Lân cho biết rằng thông tin theo nghĩa rộng bao gồm dữ liệu, còn thông tin theo nghĩa hẹp là kiến thức hay tri thức^. Và theo tác giả, tất cả mọi dữ liệu hay kiến thức tri thức đều là thông tin theo nghĩa rộng. Theo ông “Thông tin là dữ liệu đã đưỢc chế biến tức được xử lý’ - NVD tối mức độ nào đó, kiến thức tri thức - NVD là thông tin được chế biến “xử l ý ’ ở mức cao hơn”'*. Tuy nhiên, Đặng Mộng Lân lại trích quan điểm của p. F. Drucker cho rằng trong nền kinh tế tri thức, một phần quan trọng tri thức được “dịch” thành thông tin tức tri thức đưỢc mã hoá để có thể dễ dàng mua bán'*. Rõ ràng là “thông tin” và “tri thức” đang còn được dùng lẫn cho nhau. Đó là vì, như nhiều người đã nói “Vấn đề bản chất của thông tin, như ta đã biết, là một trong 1. Castells M. The Iníormation Age Economy, Society and Culture, Vol. 1, The Rise of the Netvvork Society, Malden, Mass./Oxíord, Blackvvell, 1996, p. 38, note 28. Trích theo UNESCO Tovvards Knovvledge Societies, Tlđd, chú thích 4 của phần Nhập đề, tr. 211.. Hai tập sau của cuô'n sách này là; Vol. 2, The Power oíldentity, 1997; Vol. 3, End of Millenium, 1998. 2, 3, 4. Đặng Mộng Lân Kinh t ế tri thức N hũng khái niệm và vấn dê cơ bản, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 2001, tr. 21, 28, 19. 19 những vấn đề phức tạp nhất và có nhiều tranh cãi nhất trong khoa học hiện đại” A. Ursul và E. Semeniuk, 1978; rằng; “Vấn đề chính của chúng ta là chúng ta không biết thông tin là cái gì”' H. Bosma, 1983. Ngay cả khái niệm tri thức cũng có nhiều phát biểu khác về nó, trong đó có cả những phát biểu mang tính cảm nhận chủ quan. Chẳng hạn như Ngân hàng Thế giới đã đưa ra một định nghĩa rất văn vẻ “Tri thức giống như ánh sáng. Không trọng lượng và vô hình, nó dễ dàng đi khắp thế giới, soi sáng cuộc sông của người dân ở khắp mọi nơi”^1999. Còn Sven Ove Hansson, Giáo sư triết học Viện Công nghệ Hoàng gia Stockholm, thì đưa ra một định nghĩa thiên về tính chủ quan “Trước hết, tri thức là một dạng niềm tin. Điều gì không được người ta tin thì không thể là tri thức. Bởi vậy, nếu tôi tiếp cận được một thông tin xác thực nhưng lại không tin vào nó, thì việc tôi biết đến thông tin đó cũng không làm thành tri thức. Mặt khác những niềm tin không đúng đắn cũng không thể đưỢc coi là tri thức .... Như thế, tri thức có cả yếu tố chủ quan lẫn yếu tố khách quan”^. 1. Đặng Mộng Lân Kinh t ế tri thức N hững khái niệm và vấn đ ề cơ bản, Sđd, tr. 23. 2. Trích theo Hans-Dieter Evers Transition towards a Knovvledge Society; Malaysia and Indonesia Compared” “Quá độ sang một xã hội tri thức; so sánh Malayxia và Inđônêxia”, hdevers/ file; transition tovvards a Knowledge Society- hde 01/07/2002 354 PM, tr. 5. 3. Sven Ove Hansson “Uncertainties in the Knovvledge Society” “Những tình trạng bấp bênh trong xã hội tri thức”, UNESCO, ISSJ, 171/2002, p. 39-46 Đoạn trích ở tr. 39, { 8 pages; { 20 s. o. Hansson đã phân biệt rất rõ dữ liệu với thông tin và với tri thức, ông lấy ví dụ .nếu ông có một cuốn sách vê thói quen đi lại của người dân Stockholm, thì điều đó có nghĩa là ông được tiếp cận thông tin về chủ đê này chứ chưa phải là tri thức. Nếu ông đọc cuốn sách, thì thông tin có thể sẽ dẫn đến tri thức. Tuy nhiên, sự chuyển biến từ thông tin thành tri thức như vậy chỉ có thể xảy ra nếu ông hiểu đưỢc thông tin để nó có thể đưỢc hấp thụ vào hệ thông niềm tin của ông một cách đúng đắn. Nếu ông học thuộc lòng văn bản cuốn sách mà không hiểu, thì ông có thông tin chứ không phải có tri thức về chủ đề đó. Còn dữ liệu thì khác biệt với thông tin ở chỗ là nó không có đưỢc một hình thức thích hỢp cho sự hấp thụ. Nếu thay vì cuốn sách, ông có câu hỏi mà dựa vào đó cuốn sách đã đưỢc viết ra, thì tức là ông có dữ liệu chứ không phải thông tin. Nói tóm lại, dữ liệu phải được hấp thụ bằng con đường nhận thức để có đủ điều kiện là thông tin, và phải đưỢc hấp thụ bằng con đường nhận thức để có đủ điều kiện là tri thức*. Trong cuô"n sách Inỉorm ation and Know ledge Society Xã hội thông tin - tri thứcY, xuất bản năm 2002, hai tác giả là Suliman Al-Hawamdeh PGS. TS. Ban nghiên cứu 1. Sven Ove Hansson “Uncertainties in the Knovvledge Society”, Tlđd, tr. 39-40. 2. Việc diễn đạt cụm từ này sang tiếng Việt, nếu không chú ý sẽ rất dễ gây hiểu lầm. Nếu ta dịch là “Xã hội thông tin và tri thức”, thì có thể khiến người đọc hiểu đây là môi quan hệ giữa một vế là “xã hội thông tin” vói mệt vê là “tri thức”. Nhưng thực tê là tác giả bàn đến một kiểu xã hội mang bản tính của “thông tin và tri thức”, ở đây, “thông tin và tri thức” là một tính từ kép bô nghĩa cho danh từ “xã hội”, chính vì vậy mà chúng tôi buộc phải thay chữ “và” bằng dấu gạch nốì để khỏi nhầm lẫn. 21 r thông tin thuộc Đại học Công nghệ Nam Dương Nanyang, Xingapo và Thomas L. Hart GS. TS. của Trường Nghiên cứu Thông tin thuộc Đại học Quốc gia Plorida, Hoa Kỳ, đã phân biệt tri thức với thông tin như sau “Chúng tôi định nghĩa tri thức là thông tin tích cực và năng động đó là thông tin được đọc hoặc được thông báo, đưỢc hấp thụ và đưỢc sử dụng. Định nghĩa này sẽ giúp ta phân biệt giữa các trung tâm thông tin thư viện, thư viện số", thư mục, cổng thông tin, với các tô chức tri thức. Trong khi các trung tâm và các cổng thông tin đưỢc dùng để nắm bắt, tổ chức và quản lý thông tin, thì các tổ chức và các cổng tri thức vượt qua khỏi việc quản lý thông tin để quản lý tri thức. Điều này đòi hỏi phải sử dụng và thao tác thông tin để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ có giá trị gia tăng. Việc biến thông tin từ dạng tĩnh sang dạng động cũng có thể dẫn đến sự đổi mới và sáng tạo. Thông thường, tri thức tồn tại trong sách vở và tư liệu dưới dạng thông tin tĩnh sẽ không có ích gì nếu thông tin đó không đưỢc đọc và đưỢc lĩnh hội”k ĐỐI với khái niệm “tri thức”, nhiều người đã phân ra hai loại tri thức tri thức hiện và tri thức ẩn. Ví dụ, hai tác giả Al-Hawamdeh và Thomas L. Hart quan niệm về hai loại tri thức này như sau • Tri thức hiện, được xác định như là thông tin và kỹ năng mà chúng có thể đưỢc thông báo và mô tả dưối dạng tư liệu một cách dễ dàng ví dụ như dữ liệu số. 1. Suliman Al-Hawamdeh và Thomas L. Hart Inỉormation and Knowledge Societỵ Xã hội thông tin - tri thức, McGraw-Hill Education, Singapore, 2002, p. 3. 22 • Tri thức ấn, được xác định như là tri thức không mã hoá mà con người đem theo trong mình và sử dụng trong công việc của mình nhưng không đưỢc mô tả trong bất cứ một tư liệu nào’. Năm 2005, trong bản báo cáo Tìm hiểu xã hội tri thức, Vụ các Vấn đê Kinh tế và Xã hội DESA thuộc Ban Thư ký của Liên hợp quốc cũng phân ra hai loại tri thức như trên và họ đồng nhất thông tin với tri thức hiện để phân biệt nó vói tri thức ẩn. Họ phát biểu; “Tri thức hiện thông tin ám chỉ cái niềm tin được xác minh là đúng’ Platon, đưỢc mã hoá bằng ngôn ngữ hình thức và mang tính hệ thống. Nó có thể được kết hỢp, lưu trữ, truy cập và truyền tải thông qua các phương tiện khác nhau, bao gồm cả các công nghệ thông tin và truyền thông hiện đại. Tri thức ẩn lè một sự pha trộn linh hoạt kinh nghiệm trong khuôn khổ với các giá trị, vối thông tin tình huống và sự thấu hiểu chuyên môn để cung cấp một khuôn khô đánh giá và hỢp nhất các kinh nghiệm và thông tin mối. Tri thức ẩn là thông tin kết hỢp với kinh nghiệm, tình huống, sự lý giải và sự phán đoán”^. Sau đó, cũng giông như Nonaka, Takeuchi và Konno, DESA ví tri thức như là một tảng băng trôi phần nổi của 1. s. Al-Hawamdeh và Th. L. Hart Information and Knowledge Society, Sđd, tr. 94-96. 2. DESA Department of Economic and Social Affairs of the United Nations S ecretariat, U nderstanding KnowIedge Societies Tìm hiểu xã hội tri thức, UN, New York, May 2005 179 p., tr. 19, 23 Khái niệm Tri giác xã hộiTri giác xã hội là sự cảm nhận, hiểu biết và sự đánh giá của chủ thể tri giác về các đối tượng xã hội các cá nhân, nhóm người, bản thân mình, hoặc các hiện tượng xảy ra có sự tham gia của con giác xã hội đó là hiện tượng nhận biết xã hội. Nó phụ thuộc vào đối tượng mà chúng ta đang tri giác, đặc biệt là phụ thuộc vào mục đích, kinh nghiệm, nguyện vọng của chúng ta. Nó còn phụ thuộc vào hoàn cảnh, bối cảnh của chúng ta. Thực chất của tri giác xã hội là tri giác những người và kiểu người trong xã giác xã hội có nghĩa là thông qua các biểu hiện và hành vi bên ngoài kết hợp với một vài đặc điểm nhân cách của người đó do chúng ta cảm nhận được để hiểu được mục đích, phương hướng hành động hoặc để hiểu được người giác xã hội khác với tri giác vật thể ở chỗ đối tượng tri giác là một thực thể tích cực, có tình cảm và thái độ riêng của trúc của bất kỳ một quá trình tri giác xã hội nào cũng bao gồm chủ thể tri giác, đối tượng tri giác, quá trình tri giác và kết quả tri giác, sự ảnh hưởng của tri giác xã hội tới sự điều chỉnh hành vi và hoạt động của cá nhân, của các nhóm xã cơ chế tri giác xã hộiCác công trình nghiên cứu đã cố gắng chỉ ra những yếu tố ảnh hưởng của quá trình tri giác xã hội. Đó là ấn tượng ban đầu, quy gán xã hội, định kiến xã Ấn tượng ban đầuẤn tượng ban đầu là hình ảnh tổng thể mà chúng ta có được về một người khác hoặc về nhóm xã hội dựa trên một sự nhìn nhận, đánh giá một cách chung chung thông qua những biểu hiện về diện mạo, lời nói, cử chỉ, tác phong, ánh mắt,… Sau lần tiếp xúc ban đầu ta sẽ có một ấn tượng nhất định về đối tượng của thường sau lần gặp gỡ đầu tiên tri giác, nhận thức, về mặt vô thức, trong đầu chúng ta hiểu về người đó liệu có chơi được hay không? người này có thích mình không?… Chúng ta quy lại một nhân cách chung, do đó nó chi phối rất nhiều trong quá trình tri giác lần tượng ban đầu được hình thành trên cơ sởa. Đặc điểm trung tâmTrong quá trình ứng xử xã hội, giao tiếp thông thường ở mỗi cá nhân có nổi lên một đặc điểm nào đó và chúng ta đã lấy nó để suy luận về tâm lý học Mỹ, Asch Solomon, nghiên cứu về ấn tượng ban đầu đã tiến hành thí nghiệm như sauCho hai nhóm sinh viên hai bảng ghi các đặc điểm tính cách. Nội dung của hai bảng như nhau, chỉ khác một điểm “tính nồng nhiệt” của người A thay thế bằng “tính lạnh lùng” của người A — Người BThông minh — Thông minhKhéo léo — Khéo léoCần cù — Cần cùNồng nhiệt — Lạnh lùngKiên quyết — Kiên quyếtThực tế — Thực tếThận trọng — Thận trọngÔng yêu cầu hai nhóm sinh viên đưa ra nhận định của mình về người có những đặc điểm trong bảng. Các sinh viên nhận xét người A là một người tin tưởng vào những điều đúng đắn, muốn mọi người hiểu quan điểm của mình, chân thành khi tranh luận và mong ý kiến, quan điểm đó được thừa sinh viên thứ hai cho rằng người B là một kẻ lừa dối, thấy mình thành công, thông minh đã tưởng là khác người, đó là người tính toán, lãnh thí nghiệm này ông kết luận chính cặp đặc điểm trung tâm “nồng nhiệt – lạnh lùng” là yếu tố chính trong quá trình hình thành ấn tượng. Nếu thay đổi cặp đặc điểm này thì ấn tượng chung cũng bị ảnh hưởng. Các cặp đặc điểm trung tâm không chỉ đem lại những ấn tượng khác nhau mà còn gợi thêm những cảm tưởng khác nhau như tính nồng nhiệt đã làm 90% sinh viên đánh giá người A là hào hiệp, 75% sinh viên đánh giá là hài hước. Còn tính “lạnh lùng” chỉ có 10% sinh viên nhận định người B là hào hiệp hoặc hài tượng ban đầu được hình thành trên cơ sở một vài đặc điểm biểu hiện ra ngoài mang tính nổi bật trong một hoàn cảnh nào đó. Đặc điểm ấy thường gọi là đặc điểm trung tâm. Nó quyết định, khống chế cách thức và chiều hướng suy nghĩ cảm nhận của người tri giác. Vì thế, không phải lúc nào chúng ta tri giác cũng Sơ đồ nhân cách tiềm cuộc sống, do tiếp xúc ứng xử, chúng ta thường có một cách thức hay gán ghép các yếu tố với nhau thành một nhân mỗi con người đều có sẵn một sơ đồ liên hệ giữa các tính cách của con người với nhau. Chúng ta hay gán ghép những nét tính cách, phẩm chất giống nhau lại. Khi tiếp xúc với các cá nhân trong xã hội, thì mối liên hệ nét tính cách tốt hay xấu nó được hoạt hoá và chúng ta dùng để đánh giá người khác. Sự hoạt hoá – liên kết giữa các nét tính cách đã ảnh hưởng đến việc chúng ta đánh giá người khác dựa vào kinh nghiệm của chúng ta, nghĩa là chúng ta đặt con người bằng phạm trù sơ lược, bằng kinh niệm sơ đồ nhân cách tiềm ẩn nhằm mô tả một biểu tượng tinh thần sơ lược có chức năng hiểu biết hiện thực bằng cách giản lược những phức tạp của đối tượng, thực tế, dự đoán được các phản ứng hành động của đối tác, định ra cái chuẩn có khả năng nhờ đó có thể kiểm tra được người khác và hành động của đồ nhân cách ngầm ẩn nó phụ thuộc vào+ Kinh nghiệm những ý niệm, tri thức của chúng ta có về người khác, chúng ta sẽ có phản ứng tích cực hay tiêu cực về các nhóm xã hội khác.+ Động cơ lý do hành động, đó là hoạt động của chúng ta hướng vào để đạt được mong muốn, ý đồ của chúng ta.+ Hoàn cảnh, bối cảnh cụ thể. Nó quy định cách thức chúng ta nhìn nhận người khác, quy định chuẩn mực của sự đánh Thông tin đầu tiênLà những tri thức, cảm xúc của con người, trật tự của những thông tin quy định cách chúng ta đánh giá người tự thông tin rất quan trọng trong việc quan sát người khác, những thông tin đến sớm nhất, đầu tiên bao giờ cũng tác động gây cho người ta có sự tri giác gây ấn tượng lớn. Nó tạo nên sự áp đặt, nó chi phối làm sai lệch cách chúng ta cảm nhận người tin ban đầu có tính quyết định khi tri giác người lạ, còn đối với người quen thì thông tin cuối cùng lại có ý nghĩa hơn vậy, ấn tượng ban đầu mang tính chủ quan khó xác định, bị nhiều hiệu ứng tác động không dễ xoá nhoà. Nó quyết định nhiều thái độ ứng xử tiếp đó của chúng ta đối với đối Quy gán xã hộiViệc chúng ta giải thích các sự kiện xã hội hay nhận định về người khác bằng cách gán những nguyên nhân ổn định nằm trong kinh nghiệm của bản thân, gọi là quy gán xã gán xã hội, đó là quá trình suy diễn nhằm hiểu ý nghĩa hành động của người khác bằng cách tìm những nguyên nhân hợp lý để giải thích cho các sự kiện, hành động luôn biến đổi trong xã gán xã hội tuân theo những nguyên tắc– Nguyên tắc tâm lý ngây thơ chúng ta luôn tìm cách khám phá nguyên nhân hành vi để hiểu và dự đoán sự kiện sắp tới, với mong muốn có thể giám sát được môi trường và mọi vật xung quanh. Heider nhà tâm lý học Mỹ gọi xu thế này là tâm lý ngây thơ vốn có ở mỗi người.– Nguyên tắc suy diễn tương ứng Khi quan sát hành vi của người khác, ta luôn tìm cách suy diễn ý nghĩa của hành vi đó tương ứng với những gì ta thấy. Nếu chúng ta có nhiều thông tin về mục đích hoạt động của đối tượng thì sự suy diễn tương ứng càng chính xác. Sự suy diễn tương ứng nhằm đi đến một quy gán nào đó bị ảnh hưởng bởi 3 yếu tố sau+ Chuỗi hành vi không thống nhất+ Hành vi xã hội được mong đợi hay hành vi không được mong đợi+ Những hành vi được tự do lựa chọn dễ suy diễn hơn hành vi bắt suy diễn tương ứng để tìm nguyên nhân hành vi không phải lúc nào cũng chính xác. Sự suy diễn tương ứng chỉ phản ánh được lượng thông tin chúng ta có về đối tượng. Khi cá nhân không có thông tin chi tiết, cụ thể nên hay dựa vào một điều bất kỳ mà người đó biết để quy gán hoặc cho là thế này, hoặc thế kia.– Nguyên tắc suy diễn nhân quả thường biểu hiện bởi 3 yếu tố Chủ quan, khách quan, đối một quy luật chung khi cá nhân thành công thì thường quy gán nghiêng về bản thân theo xu hướng quy gán vào nâng cao năng lực, phẩm chất của lại, khi thất bại cá nhân thường đổ lỗi cho khách quan. Còn đối với người khác khi thành công chúng ta hay quy gán cho là khách quan, khi họ thất bại lại quy gán do chủ quan của quá trình quy gán chúng ta hay cho thái độ và hành vi của mình là chuẩn, hành vi của người khác là không chuẩn. Từ đó, chúng ta nhìn nó để chiếu theo người khác, ép người khác theo chuẩn của trong những nhược điểm của con người khi quy gán nguyên nhân hành vi là ảo tưởng rằng mình có khả năng kiểm soát được mọi yếu tố quyết định thành công hay thất bại. Ví dụ như trò chơi xổ số, người ta có cảm tưởng rằng có nhiều cơ hội thắng cuộc nếu tự do lựa chọn vé số. Tri thức đã có từ lâu trong lịch sử, có thể nói từ khi con người bắt đầu có tư duy thì lúc đó có tri thức. Trải qua một thời gian dài phát triển của lịch sử, cho đến những thập kỷ gần đây tri thức và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế-xã hội mới được đề cặp nhiều. Vậy tri thức là gì?1. Khái niệm về tri rất nhiều cách định nghĩa về tri thức nhưng có thể hiểu “Tri thức là sự hiểu biết, sáng tạo và những khả năng, kỹ năng để ứng dụng nóhiểu biết sáng tạo vào việc tạo ra cái mới nhằm mục đích phát triển kinh tế -xã hội. Tri thức bao gồm tất cả những thông tin, số liệu, bản vẽ, tưởng tượngsáng tạo, khả năng, kỹ năng quan niệm về giá trị và những sản phẩm mang tính tượng trưng xã hội khác. Tri thức có vai trò rất lớn đối với đời sống –xã tế thế giới đang bước vào một thời đại mới, một trình độ mới. Đó là trình độ mà “nhân tố quan trọng nhất là việc chiếm hữu, phân phối nguồn trí lực và việc sáng tạo, phân phối và sử dụng tri thức trong các ngành kĩ thuật cao”. Tiêu chí chủ yếu của nó là lấy tri thức, trí óc làm yếu tố then chốt để phát triển kinh tế và tồn tại trực tiếp giống như các yếu tố sức lao động và tài nguyên. Đó là thời đại mà “Tri thức đã trở thành động lực chủ yếu của sự phát triển xã hội”, “Tri thức là tài nguyên là tư bản”, Tri thức là tâm điểm của cạnh tranh và là nguồn lực dẫn dắt cho sự tăng trưởng dài hạn dẫn tới những thay đổi lớn trong cách tổ chức sản xuất, cấu trúc thị trường, lựa chọn nghề nghiệp…2. Vai trò của tri thức trong đời sống-xã hộiTri thức đã và đang ngày càng trở lên quan trọng đối với đời sống xã hội. Nó tác động trực tiếp đến các lĩnh vực của xã hội kinh tế, chính trị, văn hóa giáo dục… Vai trò của tri thức đối với Kinh tế – Kinh tế tri thứcNền kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó quá trình thu nhận truyền bá, sử dụng, khai thác, sáng tạo tri thức trở thành thành phần chủ đạo trong quá trình tạo ra của cải. Kinh tế tri thức có nhiều đặc điểm cơ bản khác biệt so với các nền kinh tế trước đó– Tri thức khoa học-công nghệ cùng với lao động kỹ năng cao là cơ sỏ chủ yếu và phát triển rất mạnh– Nguồn vốn quan trọng nhất, quý nhất là tri thức, nguồn vốn trí tuệ.– Sáng tạo và đổi mới thướng xuyên là động lực chủ yếu nhất thúc đảy sụ phát triển.– Nền kinh tế mang tính học tập.– Nền kinh tế lấy thị trường toàn cầu là môi trường hoạt động chính.– Nền kinh tế phát triển bền vững do được nuôi dưỡng bằng nguồn năng lượng vô tận và năng động là tri tiễn hai thập niên qua đã khẳng định, dưới tác động của cách mạng khoa học – công nghệ và toàn cầu hóa, kinh tế tri thức đang hình thành ở nhiều nước phát triển và sẽ trở thành một xu thế quốc tế lớn trong một, hai thập niên xuất hiện của các hoạt động sản xuất kinh doanh dựa trên tri thức. Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế lấy sản xuất và kinh doanh tri thức làm nội dung chủ yếu. Tương lai của bất cứ doanh nghiệp nào cũng không chỉ phụ thuộc vào việc sử dụng tiền bạc, nguyên vật liệu, nguồn nhân lực và máy móc thiết bị…mà còn phụ thuộc vào việc xử lý và sử dụng những thông tin nội bộ và thông tin từ môi trường kinh doanh. Cách tốt nhất để tăng năng suất là tìm hiểu kiến thức chuyên môn mà hãng có được, sử dụng vì mục đích thương mại và những kiến thức này cần được phát triển không trị của những công ty công nghệ cao như các công ty sản xuất phần mềm và các công ty công nghệ sinh học không chỉ nằm trong những tài sản vật chất hữu hình, mà còn nằm trong những tài sản vô hình, như tri thức và các bằng sáng chế. Để trở thành một công ty được dẫn dắt bởi tri thức, các công ty phải biết nhận ra những thay đổi của tỉ trọng vốn trí tuệ trong tổng giá trị kinh doanh. Vốn trí tuệ của công ty, tri thức, bí quyết và phương pháp đội ngũ nhân viên và công nhân cũng như khả năng của công ty để liên tục hoàn thiện phương pháp sản xuất là một nguồn lợi thế cạnh tranh. Hiện có các bằng chứng đáng lưu ý chỉ ra phần giá trị vô hình của các công ty công nghệ cao và dịch vụ đã vượt xa phần giá trị hữu hình của các tài sản vật thể của các công ty đó, như các toà nhà hay thiết bị. Ví dụ như các tài sản vật thể của công ty Microsoft chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng giá trị được vốn hóa trên thị trường của công ty này. Phần lớn là vốn trí tuệ. Sau hai mươi năm thành lập, số nhân viên công ty tăng 6 nghìn lần, thu nhập tăng 370 nghìn lần, 1/10 số nhân viên trở thành triệu phú. Nguồn vốn con người là một thành tố giá trị cơ bản trong một công ty dựa vào tri kinh tế tri thức sẽ ngày càng làm xuất hiện nhiều sản phẩm thông minh. Đó là những sản phẩm có khả năng gạn lọc và giải thích các thông tin để người sử dụng có thể hành động một cách hiệu quả hơn. Ngay cả một chiếc bánh kẹp thịt cũng có thể trở thành một sản phẩm mới dựa trên tri thức bằng cách làm cho khách hàng biết cách sử dụng những thông tin về dinh dưỡng. Số lượng ka-lo và chất béo được in lên hóa đơn hoặc thậm chí trình bày thông tin đó trước khi khách đặt hàng. Thậm chí có những sản phẩm thông minh vừa có thể truyền đạt thông tin về sản phẩm vừa khuyên khách hàng nên làm gì từ tình hình vừa được thông tri thức –vai trò của nó trong kinh tế tri thứcVốn tri thức là tri thức được dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh với mục đích sinh lợităng thêm giá trị.Vốn tri thức là một yếu tố nổi bật nhất trong hàm sản xuất. Trong văn minh nông nghiệp thì sức lao động, đất đai và vốn là những yếu tố của sản xuất công nghiệp, vốn, đất đai và nhất là sức lao động trở thành hàng hóa với tư cách là những yếu tố quan trọng trong sự phát triển kinh tế-xã hội, góp phần chuyển xã hội phong kiến thành xã hội tư bản trong lịch sử. Còn trong kinh tế tri thức, yếu tố của sự phát triển nền kinh tế-xã hội không chỉ bao gồm vốn tiền tệ, đất đai và dựa trên lao động giản đơn mà chủ yếu dựa trên lao động trí tuệ gắn với tri thức. Như vốn tri thức trở thành yếu tố thứ nhất trong hàm sản xuất thay vì yếu tố sức lao động vốn tiền tệ và đất tri thức thực sự trở thành nguồn gốc động lực cho sự phát triển kinh tế-xã hội. Nước Mỹ nói riêng và các nước thuộc tổ chức OECD nói chung nhiều năm qua tăng trưởng ổn định với tốc độ cao là nhờ có sự phát triển của các ngành kinh tế dựa trên tri thức như các ngành công nghệ thông tin, viễn thông, vũ trụ, đầu tư, ngân hàng, tài chính, chứng khoán, bảo hiểm…Đồng thời chuyển đầu tư vốn tri thức từ các ngành truyền thống sang các ngành có hàm lượng tri thức cao. Ở các nước có nền kinh tế đang phát triển, đầu tư càng nhiều vốn tri thức thì mang lại giá trị gia tăng cang lớn, tỷ xuất lợi nhuận càng tri thức trong kinh tế tri thức đóng vai trò quyết định sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Vốn tri thức ở đây bao gồm các công nhân tri thức, các nhà quản lý có trình độ cao, các công nghệ tri thức đóng vai trò to lớn trong việc rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các nước đang phát triển và các nước phát triển. Sự xuất hiện kinh tế tri thức vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với các nước kém và đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Các quốc gia kém và đang phát triển phải nhanh chóng tiếp cận với kinh tế tri thức, thông qua tri thức hóa các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, đặc biệt sớm hình thành các công nghệ cao để nhanh chóng đưa nền kinh tế đất nước đuổi kịp các nước phát Vai trò tri thức đối với chính trịTri thức đem lại cho con người những sự hiểu biết, kiến thức. Người có tri thức là có khả năng tư duy lý luận, khả năng phân tích tiếp cận vấn đề một cách sát thực, đúng đắn. Điều này rất quan trọng, một đất nước rất cần những con người như vây để điều hành công việc chính trị. Nó quyết định đến vận mệnh của một quốc gia. Đại hội VI của Đảng đã đánh dấu một sự chuyển hướng mạnh mẽ trong nhận thức về nguồn lực con người. Đại hội nhấn mạnh “Phát huy yếu tố con người và lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt đông” chiến lược phát triển con người đang là chiến lược cấp bách. Chúng ta cần có những giải pháp trong việc đào tạo cán bộ và hệ thống tổ chức Tuyển chọn những người học rộng tài cao, đức độ trung thành với mục tiêu xã hội chủ nghĩa, thuộc các lĩnh vực, tập trung đào tạo, bồi dưỡng cho họ những tri thức còn thiếu và yếu để bố trí vào các cơ quan tham mưu hoạch định đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước với những qui định cụ thể về chế độ trách nhiệm quyền hạn và lợi xếp các cơ quan nghiên cứu khoa học –công nghệ và giáo dục-đào tạo thành một hệ thống có mối liên hệ gắn kết với nhau theo liên ngành, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho hợp tác nghiên cứu và ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn. Hợp nhất các viện nghiên cứu chuyên ngành vào trường đại học và gắn kết trường đại học và các công ty, xí nghiệp. Các cơ quan nghiên cứu và đào tao được nhận đề tài, chỉ tiêu đào tạo theo chương trình, kế hoạch và kinh phí dựa trên luận chứng khả thi được trách nhiệm của người đứng đầu cơ năm theo định kỳ có những cuộc gặp chung giữa những người có trọng trách và các nhà khoa học đầu ngành của các cơ quan giáo dục-đào tạo và trung tâm khoa học lớn của quốc gia, liên hiệp các hội khoa học Việt Nam…với sự chủ tri của đồng trí chủ tịch, sự tham gia của các thành viên Hội đồng giáo dục -đào tạo và khoa học-công nghệ quốc gia về những ý kiến tư vấn, khuyến nghị của tập thể các nhà khoa học với Đảng và nhà nước về định hướng phát triển giáo dục-đào tạo. Phát triển khoa học –công nghệ, cách tuyển chon và giao chương trình đề tài, giới thiệu những nhà khoa học tài năng để viết giáo khoa, giáo trình, làm chủ nhiệm chương trình, đề tài và tham gia các hội đồng xét duyệt, thẩm định nghiệm thu các chương trình, đề tài khoa học cấp Nhà hiệp các hội khoa học Việt Nam cần thường xuyên và phát huy trí tuệ của các nhà khoa học, dân chủ thảo luận để đưa ra được những ý kiến tư vấn, những khuyến nghị xác thực có giá trị với Đảng, Nhà nước và động viên tập hợp lực lượng các hội viên tiến quân mạnh mẽ vào các lĩnh vực khoa học và công nghệ mà đất nước đang mong chờ để sớm thoát khỏi tình trạng nghèo và kém phát Vai trò tri thức đối với văn hóa-giáo dụcTri thức cũng có vai trò rất lớn đến văn hóa -giáo dục của một quốc gia. Nó giúp con người có được khả năng tiếp cận, lĩnh hội những kiến thức, ý thức của con người được nâng cao. Và do đó nền văn hóa ngày càng lành mạnh. Có những hiểu biết về tầm quan trọng của giáo dục. Từ đó xây dựng đất nước ngày càng lớn mạnh, phồn vinh. Tri thức là kho tàng tri thức khổng lồ mà con người tích lũy được qua quá trình học tập, nghiên cứu. Với 11 bài Nghị luận xã hội về tri thức là sức mạnh sẽ giúp những em học sinh lớp 9 hiểu rõ hơn về ý nghĩa, tác dụng của tri thức. Tri thức giúp bản thân chúng ta hoàn thiện hơn, rời xa những xấu xa, ích kỉ, nhỏ nhen tầm thường trong cuộc sống, biết yêu thương nhiều hơn. Vậy mời những em cùng theo dõi bài viết dưới đây của GrabHanoi để củng cố tri thức môn Ngữ văn 9, ôn thi vào lớp 10 hiệu thể bạn quan tâm Nghị luận về việc giữ lời hứa 9 mẫu Nghị luận về hiện tượng sống ảo 20 mẫu Nghị luận sức mạnh của sự tử tế 19 mẫu Top 10 mẫu Cảm nhận khổ 1 bài Nói với con của Y Phương hay nhất Top 8 mẫu Phân tích khổ thơ 4, 5 bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải Mục lụcDàn ý nghị luận xã hội về tri thức là sức mạnhDàn ý 1Dàn ý 2Dàn ý 3Đoạn văn Nghị luận xã hội về tri thức là sức mạnhĐoạn văn 1Đoạn văn 2Đoạn văn 3Nghị luận xã hội về tri thức là sức mạnh ngắn gọnBài văn mẫu 1Bài văn mẫu 2Bài văn nghị luận xã hội về tri thức là sức mạnh chi tiếtBài văn mẫu 1Bài văn mẫu 2Bài văn mẫu 3Bài văn mẫu 4Bài văn mẫu 5Bài văn mẫu 6 Dàn ý 1 1. Mở bàiBạn Đang Xem Nghị luận xã hội về tri thức là sức mạnh hay nhất 11 mẫu Giới thiệu vấn đề cần nghị luận tri thức là sức mạnh. Lưu ý học sinh được tự lựa chọn lựa cách dẫn mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp tùy thuộc vào năng lực của bản thân. 2. Thân bài a. giảng giải Tri thức là kho tàng tri thức khổng lồ mà con người đã tích lũy được rất nhiều năm nay, được lưu trữ dưới dạng sách vở hoặc thông tin. Tri thức của mỗi con người là chính là những gì mà con người tích lũy được thông qua quá trình học tập, nghiên cứu. b. Phân tích Con người muốn thành công, tạo được thành tựu cho bản thân, xây dựng xã hội tốt đẹp thì chúng ta phải học tập, trau dồi tri thức. Tri thức giúp con người vươn tới những điều tưởng dường như không thể, khám phá ra những chân trời mới, những điều thú vị, kì vĩ của thiên nhiên, của vũ trụ. nếu như con người sống mà không có tri thức, không có tri thức, không có kế hoạch, mục tiêu thì sẽ thụt lùi so với xã hội và trở nên thấp kém, kéo theo đó là cuộc sống đi xuống. Tri thức là cốt lõi để xã hội này phát triển. c. Chứng minh Học sinh tự lấy dẫn chứng về những tấm gương tích cực trau dồi tri thức và khiến cho cuộc sống, xã hội tốt đẹp hơn. Lưu ý dẫn chứng phải tiêu biểu, nổi trội, được rất nhiều người biết tới. d. Phản đề Tuy nhiên, trong cuộc sống vẫn còn có rất nhiều người vẫn chưa có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của tri thức, lại có những người không nỗ lực trau dồi để hoàn thiện bản thân mình để cống hiến cho xã hội,… những người này cần bị thẳng thắn phê phán, chỉ trích. 3. Kết bài Khái quát lại vấn đề nghị luận tri thức là sức mạnh; đồng thời rút ra bài học và liên hệ bản thân. Dàn ý 2 1. Mở bàiBạn Đang Xem Nghị luận xã hội về tri thức là sức mạnh hay nhất 11 mẫu Trong bất kì xã hội hay thời kỳ nào thì vai trò của trí thức tới vô cùng quan trọng. Đặc biệt, trong xã hội ngày nay, tri thức thực sự ngày càng khẳng định được vai trò lớn của mình đối với đời sống con người. 2. Thân bài * Khái niệm Tri thức là những hiểu biết về khoa học, văn học, lịch sử, đời sống xã hội mà con người chiếm lĩnh được. Là những hiểu biết của nhân loại được đúc kết quả hàng trăm thế kỷ phát triển từ thời xa xưa tới ngày nay. * Vai trò của tri thức trong cuộc sống – Trong quá khứ đã có biết bao hào kiệt tài năng với tài tình thao lược, võ giỏi, văn hay, tri thức sâu rộng nhờ đó mà ta lực lượng yếu vẫn thắng địch giành lại độc lập cho dân. – Ngày nay, khi quốc gia được thái bình tri thức rất cần thiết trong việc phát triển quốc gia, dân tộc Về chính trị Cần phải được xây dựng vững mạnh, ổn định, cần những người lãnh đạo có năng lực, tầm nhìn lớn. Về kinh tế Giữ vị trí số một trong phát triển nền kinh tế tri thức, đưa quốc gia sánh vai với cường quốc trên toàn cầu. Đối với xã hội, văn hoá giáo dục, tri thức cũng góp tiếng nói của mình vào sự ổn định phát triển. * Đối với bản thân mỗi người Tri thức mang lại cuộc sống đủ đầy, tăng chất lượng đời sống và sống có ích. Tri thức mang tới những chân trời mới của cuộc sống, con người khẳng định được bản thân là nhờ có tri thức. Tri thức giúp bản thân ngày càng hoàn thiện hơn, biết lựa chọn lựa những tinh hoa để tiếp nhận, rời xa những xấu xa, ích kỉ, nhỏ nhen tầm thường trong cuộc sống, biết ” gạn đục khơi trong”, biết yêu thương nhiều hơn. → Tri thức là hành trang thiết yếu mà mỗi người cần có trên phố đời. * Mở rộng Trên thực tế, ta vẫn thấy nhiều bạn trẻ chỉ miệt mài ăn chơi, học đòi mà không học hành. Chúng ta là những người trẻ, những hy vọng tương lai của nước nhà, cần hiểu được tầm quan trọng của trí thức, nỗ lực học tập thật giỏi, trau dồi, rèn luyện cả đạo đức, tri thức để phát triển toàn diện 3. Kết bài “Tri thức là sức mạnh”, hãy trau dồi tri thức để mang tới sức mạnh cho chính mình, cho quốc gia, dân tộc mình. Hãy là một vì sao nhấp nhánh tài năng, bản lĩnh và một trái tim đẹp. Dàn ý 3 I. Mở bài Dẫn dắt câu nói “Tri thức là sức mạnh” II. Thân bài * Tri thức là gì? Tri thức là hệ thống bao gồm những dữ kiện, thông tin, sự mô tả hay kỹ năng, kinh nghiệm có được nhờ trải nghiệm thực tiễn hay thông qua giáo dục. Xem Thêm Nghị luận về hút thuốc lá hay nhất 23 mẫu* Người có tri thức là người thế nào? Là người đã tích lũy được một lượng tri thức đủ lớn để làm việc và sáng tạo. * vì sao có tri thức thì có sức mạnh? Tích lũy và kế thừa tri thức theo thời gian vốn là thực chất của xã hội loài người. Không ai có thể phủ nhận sức mạnh làm thay đổi toàn cầu của tri thức. * Muốn có được sức mạnh của tri thức ta phải làm gì? Phải biết tự giác học tập. Biết sàng lọc tri thức, lựa chọn lựa cái thích hợp. Vận dụng tri thức được học vào những việc hữu ích, tạo ra lợi ích. III. Kết bài Cách tốt nhất để chúng ta có được tri thức là học tập, không có tri thức ta không có được thành công. Đoạn văn Nghị luận xã hội về tri thức là sức mạnh Đoạn văn 1 Xã hội loài người ngày càng phát triển, thì vai trò của trí thức lại càng được tăng. Tri thức là những hiểu biết của con người và nhân loại được đúc kết qua sự phát triển từ thời xa xưa tới ngày nay. Tri thức bao gồm tất cả những khả năng, kĩ năng, hiểu biết của con người về tri thức văn hóa cũng như tự nhiên, xã hội. Tri thức có vai trò vô cùng lớn trong đời sống văn hóa xã hội. Nó tác động trực tiếp tới những ngành của kinh tế, xã hội, văn hóa giáo dục,… Tri thức là chất xám đưa quốc gia đi lên, sánh vai với cường quốc năm châu. Một quốc gia có người dân đạt trình độ cao về trí thức mức sống của người dân được cải thiện hơn, con người được hạnh phúc hơn. Xã hội từ đó yên bình hơn, trở nên văn minh và giàu đẹp hơn. Đối với mỗi người, tri thức lại càng cần thiết hơn bao giờ người có thành công hay không là do tri thức của mỗi người. Người có tri thức cao thì sẽ có khả năng làm việc, xử sự tốt hơn. Tri thức giúp bản thân ngày càng hoàn thiện hơn. vậy mà ngày nay vẫn còn rất nhiều người chưa hiểu được tầm quan trọng của tri thức, có lối sống ăn chơi, học đòi mà không học hành. những người này thật đáng phê phán. Tóm lại, tri thức có vai trò vô cùng lớn trong đời sống. Vì vậy mỗi chúng ta hãy trau dồi tri thức cho mình để hoàn thiện bản thân hơn nữa. Đoạn văn 2 Con người mạnh mẽ hơn những loài vật khác là bởi con người có trí tuệ. trí tuệ của con người được bồi dưỡng bởi tri thức. không có tri thức, trí tuệ con người không còn sức mạnh gì nữa. bởi vậy, bàn về vai trò của tri thức, Lênin đã từng nói “Tri thức là sức mạnh. Ai có tri thức thì người đó có được sức mạnh”. Tri thức là một cái chúng ta học qua sách vở, lý thuyết tới thực hành, từ thầy cô, cha mẹ và tất cả những cái gì liên quan tới thực tế. Tri thức thì luôn có 2 dạng là ẩn và hiện. Tất cả hoặc hầu như con người chúng ta đều có dạng tri thức là hiện – ẩn. Sức mạnh là cái tác động tới chúng ta, và nó luôn ẩn chứa trong mình ở mức cao nhất. Ở đây là dành cho những người hiểu biết, có rất nhiều tri thức, trải nghiệm trong cuộc sống. Bản thân bạn phải tự trang bị tri thức cho bản thân, nếu như có nó thì bạn có được sức mạnh. Có tri thức thì bạn có thể tự tin trong công việc, trong giao tiếp và rất nhiều ngành. Có nó thì bạn cũng có thể tự khắc phục mọi việc cho thật đúng đắn, không sai cái gì. Điều đó khiến bạn càng được mọi người tôn trọng hơn. nếu như không có tri thức thìa là một mối hiểm họa khôn lường. Mỗi người ai cũng có một cái điểm mạnh riêng, cho nên không thể lấy tri thức ra mà so sánh với nhau. Bạn cần hiểu giữa 2 mặt này của tri thức. Đừng lấy nó mà đem chê bai người khác trên mặt yếu. Chính bản thân bạn cũng cần phải tham khảo và tự cho mình một tri thức nhất định. Siêng năng đọc sách, tự giác cao trong học tập, vận dụng nó một cách hiệu quả sẽ làm cho bạn có được tri thức ở mức cao nhất. Không phải tri thức và đạo đức tự nhiên mà có. Đây là hai khía cạnh được thể hiện ở tính cách cùng với con người của bạn, nó tồn tại song song với nhau và không thể thiếu một cái trong hai thứ ấy. Cho nên, bạn phải siêng năng học tập, dành thời gian cống hiến bản thân cho lao động thay vì phương thức. Nhờ như thế thì bạn mới có được hạnh phúc. Đoạn văn 3 “Tri thức là sức mạnh, ai có tri thức người đó có sức mạnh” Lênin là một nhà tư tưởng vĩ đại, một nhà lý luận chính trị kiệt xuất. ông cũng là một vị lãnh tụ lỗi lạc của giai cấp người lao động và nhân dân lao động toàn toàn cầu. ông là một nhân vật nổi tiếng với những câu nói đi vào lịch sử nhân loại như “ học, học nữa, học mãi”. Ngoài ra, ông còn có một câu nói để lại cho lịch sử loài người về tri thức và sức mạnh, đó là “ai có tri thức người đó có sức mạnh”. Câu nói như khẳng định sức mạnh của trí thức trong cuộc sống của loài người. để hiểu rõ hơn về câu nói này của Lenin ta cùng đi phân tích thức bao gồm những dữ kiện, thông tin, sự mô tả, hay kỹ năng có được nhờ trải nghiệm hay thông qua giáo dục. tri thức còn thể hiện sự hiểu biết về một đối tượng, về mặt lý thuyết hay thực hành. Theo như tiếng việt thì “tri” và “thức” đều tức là mạnh là khả năng tác động mạnh mẽ tới những người, tới một sự vật, gây tác dụng ở mức cao. Sức mạnh ở đây không chỉ nói sức mạnh cơ bắp mà còn nói lên sức mạnh thân thể, sức mạnh ý thức, sức mạnh tình yêu. Câu nói như thể hiện những người có rất nhiều tri thức, nhiều trải nghiệm và nhiều kinh nghiệm thì người đó có sức mạnh hơn trì học tập và rèn luyện. Không ngừng học để có được tri thức và giữ gìn chúng qua thời gian. Không có tri thức thì không có thành công. Tri thức là cái khiến chúng ta nhìn thấy mình đang hiện hữu. Tri thức trong đầu và đạo đức trong tim, hai cái này phải tồn tại song song và không thể thiếu một trong hai. Bạn phải dành thời gian cống hiến để nghiên cứu và lao động thay vì phương thức và lạc thú, đó là cách để trở nên hữu dụng, và nhờ vậy, có được hạnh phúc. Nghị luận xã hội về tri thức là sức mạnh ngắn gọn Bài văn mẫu 1 Trong bất kì xã hội hay thời kỳ nào thì vai trò của trí thức tới vô cùng quan trọng. Đặc biệt, trong xã hội ngày nay, tri thức thực sự ngày càng khẳng định được vai trò lớn của mình đối với đời sống con người. Tri thức là gì? Là những hiểu biết về khoa học, văn học, lịch sử, đời sống xã hội mà con người chiếm lĩnh được. Là những hiểu biết của nhân loại được đúc kết quả hàng trăm thế kỷ phát triển từ thời xa xưa tới ngày nay. Trong cuộc sống tri thức giữ vai trò rất quan trọng, tiêu biểu như trong lịch sử dân tộc đã có biết bao hào kiệt tài năng với tài tình thao lược, võ giỏi, văn hay, tri thức sâu rộng nhờ đó mà ta lực lượng yếu vẫn thắng địch giành lại độc lập cho dân. Ngày nay, khi quốc gia được thái bình tri thức rất cần thiết trong việc phát triển quốc gia, dân tộc. Về chính trị cần phải được xây dựng vững mạnh, ổn định, cần những người lãnh đạo có năng lực, tầm nhìn lớn. Về kinh tế thì cần phải giữ vị trí số một trong phát triển nền kinh tế tri thức, đưa quốc gia sánh vai với cường quốc trên toàn cầu. Đối với xã hội, văn hoá giáo dục, tri thức cũng góp tiếng nói của mình vào sự ổn định phát triển. Đối với bản thân mỗi người tri thức mang lại cuộc sống đủ đầy, tăng chất lượng đời sống và sống có ích. Tri thức mang tới những chân trời mới của cuộc sống, con người khẳng định được bản thân là nhờ có tri thức. Tri thức giúp bản thân ngày càng hoàn thiện hơn, biết lựa chọn lựa những tinh hoa để tiếp nhận, rời xa những xấu xa, ích kỉ, nhỏ nhen tầm thường trong cuộc sống, biết ” gạn đục khơi trong”, biết yêu thương nhiều hơn. Tri thức là hành trang thiết yếu mà mỗi người cần có trên phố đời. Trên thực tế, ta vẫn thấy nhiều bạn trẻ chỉ miệt mài ăn chơi, học đòi mà không học hành. Chúng ta là những người trẻ, những hy vọng tương lai của nước nhà, cần hiểu được tầm quan trọng của trí thức, nỗ lực học tập thật giỏi, trau dồi, rèn luyện cả đạo đức, tri thức để phát triển toàn diện. “Tri thức là sức mạnh”, hãy trau dồi tri thức để mang tới sức mạnh cho chính mình, cho quốc gia, dân tộc mình. Hãy là một vì sao nhấp nhánh tài năng, bản lĩnh và một trái tim đẹp. Bài văn mẫu 2 Ở hầu khắp mọi nơi trên toàn cầu, từ nơi khô cằn tới nơi tuyết phủ, từ trẻ nhỏ tới người già họ đều đang trên cuộc hành trình của tri thức bởi một lý do đơn thuần “ tri thức là sức mạnh”. Câu nói trên như một lời khẳng định tầm quan trọng của tri thức trong cuộc sống con người. Vậy tri thức là gì? Tri thức trước hết là những tri thức trong những ngành khác nhau mà ta được lĩnh ngộ từ giảng đường. Nhưng không chỉ vậy, tri thức còn là kết quả của quá trình tích lũy những kinh nghiệm, hiểu biết về những hiện tượng tự nhiên những vấn đề xảy ra trong cuộc sống. Vậy vì sao, tri thức lại có mối quan hệ với sức mạng – một dạng năng lực của con người? Bởi nhờ có tri thức nhân loại mới có thể hạ gục quân thù tự nhiên và làm chủ cuộc sống; tri thức cũng góp một phần không nhỏ trong sự phát triển của nền văn minh nhân loại với sự ra đời của những loại máy móc. Trong chúng ta không ai mà không biết tới những nhà chưng học như Einstein, Edison hay Steven Hawking… những con người vĩ đại sử dụng vốn tri thức của mình phục vụ cho toàn xã hội. Tuy nhiên, chuyện gì cũng có hai mặt song hành và tri thức cũng vậy. nếu như tri thức là người bạn lớn lao song hành thì ngu đối lại là một thảm kịch. Đáng buồn thay trong xã hội ngày nay nhiều người vẫn chưa ý thức được tầm quan trọng của tri thức, họ chỉ coi việc học như một dụng cụ để tìm việc làm mà xem nhẹ việc học để có hiểu biết. Tóm lại, “tri thức là sức mạnh” là một chân lý vĩnh hằng ngày càng được chứng minh bởi thời gian. Bài văn nghị luận xã hội về tri thức là sức mạnh chi tiết Bài văn mẫu 1 Để có thể vững bước trên tuyến đường đời, hành trang thiết yếu nhất mà mỗi người chúng ta đều phải có đó là tri thức. Bởi cuộc sống là những điều kỳ diệu mà con người không bao giờ có thể biết hết được. Chỉ có những tri thức mới giúp chúng ta vượt qua được tất cả những điều trong cuộc sống mà bước tới thành công của chính mình. Chẳng vậy mà một nhà khoa học người Anh đã phát biểu rằng “Tri thức là sức mạnh”. Câu nói ngắn gọn nhưng đã khẳng định vai trò, tầm quan trọng của tri thức. Tri thức, theo nghĩa hẹp, là tri thức tích lũy được về những ngành khác nhau của mỗi người nhờ học tập, rèn luyện và suy nghĩ. Theo nghĩa rộng, tri thức có thể hiểu là vốn hiểu biết về tự nhiên, xã hội và con người,… của nhân loại nói chung. Sức mạnh của tri thức là khả năng làm thay đổi toàn cầu của tri thức thông qua sự vận dụng tri thức của con người trong những hoạt động nghiên cứu, lao động và sản xuất. Sức mạnh của tri thức còn có thể được hiểu là khả năng sáng tạo ra cái mới, cái tiến bộ, tạo động lực cho sự phát triển của xã hội. Nhờ biết tích lũy tri thức mà con người có thể hiểu được thực chất của toàn cầu khách quan, vận dụng tri thức từng bước làm chủ tự nhiên và cuộc sống của mình. Không ai có thể phủ nhận sức mạnh làm thay đổi toàn cầu của tri thức. Nhờ có tri thức mà con người có thể tách mình ra khỏi toàn cầu loài vật hoang dại trở thành loài người văn minh thông qua hệ thống chữ viết, văn hóa trong xã hội loài người. Nhờ có tri thức mà cuộc sống của con người không ngừng phát triển theo từng thời kỳ. Năm 1860 ý tưởng trước hết về chiếc điện thoại được Johann Philipp Reis nghĩ ra Vài năm sau đó, cuộc gọi trước hết được thực hiện giữa nhà phát minh Alexander Graham Bell và người trợ lý của ông ngồi cách đó 4,5 m vào ngày 10/3/1876 với mẩu hội thoại ngắn ngủi “Watson, anh tới đây nhé, tôi có việc cần!” là sự kiện lịch sử đánh dấu chính thức sự ra đời của chiếc điện thoại liên lạc .Năm 1879 lần trước hết Thomas Edison phát minh ra chiếc bóng đèn sợi đốt làm thay đổi dung mạo nhân loại, trong khi con người không phải sinh hoạt phụ thuộc vào nguồn ánh sáng tự nhiên của mặt trời nữa. Nhờ có đèn khí, năng suất lao động của thời bấy giờ cũng tăng lên đáng kể nhờ làm thêm ca đêm. Năm 1897 Thompson chính là người đã phát hiện và chứng minh được sự tồn tại của electron mặc dù ông chưa thể nhìn thấy hay tách được chúng ra. Electron là hạt hạ nguyên tử trước hết được phát hiện và được xác nhận là loại hạt trước hết cấu tạo nên vật chất nhỏ hơn cả nguyên tử. Khám phá này đã phân phối cho chúng ta chứng cớ về một đơn vị mang điện cơ bản và trình bày về nó. Những thử nghiệm và phát hiện của Thompson đã mở ra một ngành khoa học mới – Vật lý hạt. Tất cả những thành tựu đó đều nhờ vào sức mạnh vô hạn của tri thức mà có. Sức mạnh tri thức làm con người có thể xáo trộn những trật tự tưởng như nghìn năm bất dịch, làm được bao điều phi thường trong trong cuộc sống. Trải qua thời gian, bằng tri thức con người đã xây dựng một xã hội loài người văn minh, tiến bộ tột bậc. nhường nhịn như, tham vọng khuất phục hoàn toàn hoàn cảnh sống là tham vọng vô tận của con người. Chính vì vậy mà con người không bao giờ ngừng tham khảo, nghiên cứu và sáng tạo ra những tri thức mới. Mỗi người trong xã hội luôn phải tự trau dồi tri thức của bản thân thông qua hoạt động học tập. Học tập phải diễn ra đều đặn, trong tương lai và xuyên suốt thế cục người. Học tập ở mọi nơi, mọi lúc và mọi thứ cần thiết. Thực tế cũng chứng minh, những người đạt tới đỉnh cao của vinh quang đều có vốn sống, vốn hiểu biết phong phú và nhu cầu cầu thị lớn. Học tập kỹ lưỡng và thực hành tỉ mỉ là bí quyết thành công của những nhà khoa học. Mỗi lượng tri thức đều phải được kiểm chứng qua trải nghiệm thực tế mới có thể được khẳng định. Tri thức giúp chúng ta hoàn thiện mình, dũng cảm và tự tin hơn khi tham gia vào những hoạt động xã hội. Không có tri thức thì không có thành công. Chính vì vậy chính là sức mạnh giúp con người hoàn thiện bản thân cũng như hoàn thiện xã hội. Đây là một khẳng định đúng đắn và cũng là chân lý vĩnh hằng được con người khẳng định qua thời gian. Bài văn mẫu 2 Nhà văn Francis Bacon nói “Tri thức là sức mạnh”. Sau này Lênin, một nhà triết học, nhà chính trị vĩ đại đã trở thành “Tri thức là sức mạnh. Ai có tri thức người đó có sức mạnh”. Thật vậy, tri thức là hệ thống bao gồm những dữ kiện, thông tin, sự mô tả hay kỹ năng, kinh nghiệm có được nhờ trải nghiệm thực tiễn hay thông qua giáo dục. thỉnh thoảng, người ta còn sử dụng tri thức để chỉ tri thức. Thế nhưng, Tri thức có hàm nghĩa rộng lớn hơn tri thức rất nhiều. Trong triết học, ngành nghiên cứu về tri thức gọi là tri thức luận. Người có tri thức là người đã tích lũy được một lượng tri thức đủ lớn để làm việc và sáng tạo. Trong cuộc sống, người có tri thức là người có hiểu biết sâu rộng về một hoặc nhiều ngành khoa học, có khả năng sáng tạo, có tư cách cao cả, lối sống tốt đẹp và đóng góp tích cực vào sự phát triển và tiến bộ của xã hội. Sức mạnh của tri thức là khả năng làm thay đổi toàn cầu của tri thức thông qua sự vận dụng tri thức của con người trong những hoạt động nghiên cứu, lao động và sản xuất. Sức mạnh của tri thức còn có thể được hiểu là khả năng sáng tạo ra cái mới, cái tiến bộ, tạo động lực cho sự phát triển của xã hội. Nhờ biết tích lũy tri thức mà con người có thể hiểu được thực chất của toàn cầu khách quan, vận dụng tri thức từng bước làm chủ tự nhiên và cuộc sống của mình. Như chúng ta đã biết, việc tích lũy và kế thừa tri thức theo thời gian vốn là thực chất của xã hội loài người. Kèm theo quá trình này là lượng tri thức ngày càng lớn hơn, khổng lồ hơn. bởi vậy những phương thức lưu trữ và truyền đạt cũng thay đổi theo mỗi thời đại. Không ai có thể phủ nhận sức mạnh làm thay đổi toàn cầu của tri thức. Từ thuở sơ khai tri thức được chạm khắc trên vách đá, xương thú, mai rùa. Khi có chữ viết, con người biết lưu giữ tri thức trên vải, trên giấy. Ngày nay, người ta đã mã hóa tri thức và lưu trữ bằng những bản điện tử. Việc lưu trữ điện tử cho phép con người lưu trữ nhanh chóng, chắc chắn và vô hạn. Bởi nó có sức mạnh nên ở bất cứ thời đại nào con người cũng nỗ lực kiếm tìm những cách lưu giữ đầy đủ nhất, chắc chắn nhất, bền lâu nhất. Con người bảo vệ tri thức như một “thanh gươm thần”, xem nó như một báu vật thiêng liêng không thể đánh rơi. Xét về sức mạnh cơ bắp, con người kém xa những loài thú ăn thịt. Xét về năng lực những giác quan khác và khả năng tự vệ, con người cũng đứng sắp cuối danh sách những loài động vật bậc cao. tức là, con người hoàn toàn có thể bị chinh phục hoặc dẫn tới diệt vong trong cuộc cạnh tranh công bằng và khốc liệt. Thế nhưng, tự nhiên luôn có sự lựa chọn lựa công bằng và loài nào biết thích ứng, biến đổi, biết tạo động lực để vươn lên sẽ thắng thế trong cuộc chạy đua tới vị trí làm chủ trái đất. Nhờ có tri thức và bằng sức mạnh của tri thức con người đã tự tách mình ra khỏi toàn cầu động vật hoang dại, trở thành loài người văn minh, làm chủ toàn bộ cuộc sống. Đó là một bước tiến vĩ đại trong lịch sử phát triển muôn loài trên trái đất. Bí quyết sống còn và không thể nào khác của loài người đó là biết tạo ra tri thức, tích lũy và vận dụng tri thức để tạo ra sức mạnh chinh phục của mình. Từ khi điều đó xảy ra trên trái đất, con người ngày càng trở nên mạnh mẽ hơn, đông đảo hơn. Họ từng bước tiến sâu vào trong những khu rừng rậm, những đảo hoang, trên sa mạc, trên đại dương,…Từng bước xác lập lãnh địa và khẳng định vai trò làm chủ của mình. Thắng lợi trong công cuộc chinh phục tự nhiên là thắng lợi vĩ đại nhất của con người. Từ đó tới nay, con người không ngừng củng cố vai trò này. Tri thức còn đem tới cho con người sức mạnh duy trì, giữ gìn ổn định và phát triển những trị giá đời sống một cách vững bền dài lâu. Trải qua thời gian, bằng tri thức con người đã xây dựng một xã hội loài người văn minh, tiến bộ tột bậc. nhường nhịn như, tham vọng khuất phục hoàn toàn hoàn cảnh sống là tham vọng vô tận của con người. Từ tiện nghi tới tiện nghi hơn nữa. Từ làm chủ tới bá chủ toàn cầu. Và thực tế đã chứng minh, ngày nay, con người đã có mặt ở hầu khắp mọi nơi trên trái đất. Tất cả những thành tựu đó đều nhờ vào sức mạnh vô hạn của tri thức mà có. Chúng ta hoàn toàn có thể tự hào khi nghĩ tới Issac Newton, Darwin, Lincoln, Shakespeare, Nobel, Einstein, Bill Gates, Hồ Chí Minh,…và biết bao tên tuổi khác. Họ thực sự là những người anh hùng vĩ đại, là người lính tiên phong trong trận đụng độ đấu loại bỏ cái lạc hậu, bất công, nghèo đói, mãi mãi xứng đáng để chúng ta ngưỡng mộ và tôn kính. Sức mạnh tri thức làm con người có thể xáo trộn những trật tự tưởng như nghìn năm bất dịch, làm được bao điều phi thường trong trong cuộc sống. Thuở xa xưa, với chiếc thuyền nhỏ, con người đã dũng cảm vượt đại dương tìm vùng đất mới. Con người cũng muốn bay được như loài chim và chiếc phi cơ trước hết đã ra đời. Với những tiến bộ khoa học, con người ngày càng đi sâu vào trong toàn cầu vi mô để tìm ra những nguồn sức mạnh vô bờ ẩn tàng trong đó. Và khát vọng làm chủ hoàn toàn không gian, thời gian chưa bao giờ yên nghỉ trong khát vọng kiếm tìm và chinh phục của con người. Với tri thức, con người cũng đủ sức mộng mơ trong toàn cầu ý thức của mình. Thi ca, âm nhạc, hội họa, kiến trúc,… là những sản phẩm tuyệt vời của tri thức mà chỉ loài người mới sở hữu và thưởng thức. Vốn tri thức mềm mại ấy đã tăng tâm hồn con người, nhân đạo hóa con người để con người sống hiền hòa hơn, biết yêu chuộng cái đẹp, căm ghét cái xấu và hơn thế nữa cho ta năng lực tư duy và khát khao được tìm tòi, khám phá làm tăng thêm thực chất xã hội và làm phong phú thêm cá tính của mỗi con người. Tri thức giúp chúng ta hoàn thiện mình, dũng cảm và tự tin hơn khi tham gia những hoạt động xã hội. Liệu có hành trang nào dành cho con người cần thiết hơn khi tri thức khi họ dấn thân vào cuộc sống này? Để tiếp cận và đi tới chiếm lĩnh tri thức trong xã hội, trước hết là con người phải biết tự giác học tập. Học tập phải diễn ra đều đặn, trong tương lai và xuyên suốt thế cục người. Học tập ở mọi nơi, mọi lúc và mọi thứ cần thiết. Một triết nhân Hy Lạp cổ đại đã nói như sau “Mỗi người tôi gặp đều có những điểm hay hơn tôi, đáng cho tôi học tập”. Thực tế cũng chứng minh, những người đạt tới đỉnh cao của vinh quang đều có vốn sống, vốn hiểu biết phong phú và nhu cầu cầu thị lớn. Xem Thêm Tổng hợp 8 mẫu Phân tích 2 khổ thơ đầu bài Sang thu hay nhấtHọc tập kỹ lưỡng và thực hành tỉ mỉ là bí quyết thành công của những nhà khoa học. Mỗi lượng tri thức đều phải được kiểm chứng qua trải nghiệm thực tế mới có thể được khẳng định. Tuy vậy, biết sàng lọc tri thức, lựa chọn lựa cái thích hợp và xác định mức độ tiếp cận, tiếp nhận đúng đắn, hiệu quả là việc làm rất cần thiết. Bởi tri thức là vô hạn còn đời người thì ngắn ngủi, nếu như quá tham lam hoặc mù quáng trong tham vọng con người sẽ lạc lối trong mê cung tri thức ấy, mãi mãi không thể tìm thấy mục tiêu cho thế cục mình. Sức mạnh của tri thức phải được vận dụng vào những việc hữu ích, tạo ra lợi ích, xúc tiến xã hội tiến bộ, tiến tới bảo vệ, giữ gìn và phát triển xã hội loài người. Sức mạnh của tri thức phải sử dụng để bảo vệ chân lí, bảo vệ cuộc sống chung trên trái đất. Sức mạnh của tri thức không phục vụ cho những tham vọng làm thịt chóc, tàn phá, hủy hoại những trị giá. Thế nhưng, không phải lúc nào điều đó cũng được khẳng định. Lịch sử đã phơi bày biết bao nhiêu thảm họa do tri thức gây ra. Nhiều kẻ đã lợi dụng sức mạnh ấy chống lại sự tiến bộ của loài người, hủy hoại, thảm sát loài người để bảo vệ cái lợi ích tư nhân ích kỷ của chúng. Những cuộc đại chiến trên khắp toàn cầu đã để lại cho loài người biết bao đau thương, mất mát. Hai quả bom nguyên tử đã nổ ở Nhật Bản thầm nhắc nhở con người trách nhiệm, tình thương lẫn nhau đồng thời cảnh báo rằng đừng để sức mạnh của tri thức – cái vốn do chúng ta tạo ra – hủy hoại sự sống của chính mình. Những kẻ không chịu hiểu câu nói trên, cố tình trốn tránh, coi việc tích lũy tri thức là thừa, vô dụng thì thế tất sẽ nhận được hậu quả không mong muốn. Còn có những người mới học được chút ít tri thức đã tự coi là đủ, không chịu nỗ lực hoặc chỉ chăm chăm học trong sách vở mà không chịu tìm tòi từ cuộc sống thì trước sau tri thức cũng rơi rớt, trở thành “ếch ngồi đáy giếng”, không thể là sức mạnh. “Tri thức là sức mạnh” là một lời khẳng định mạnh mẽ và cũng là chân lý vĩnh hằng ngày càng được kiểm chứng một cách chắc chắn theo thời gian. Kiên trì học tập, không ngừng học tập là cách tốt nhất để chúng ta có được tri thức và giữ gìn chúng qua thời gian. Không có tri thức thì không có thành công. Tri thức là cái khiến chúng ta nhìn thấy mình đang hiện hữu. Tri thức trong đầu và đạo đức trong tim, thời gian cống hiến để nghiên cứu và lao động thay vì phương thức và lạc thú, đó là cách để trở nên hữu dụng, và nhờ vậy, có được hạnh phúc. Trên đây là dàn ý và văn mẫu nghị luận câu nói của Lê Nin Tri thức là sức mạnh, ai có tri thức người đó có sức mạnh, mong rằng với nhưng nội dung này những em sẽ có ý tưởng và hoàn thiện bài văn của mình nhé, ngoài ra Đọc tài liệu cũng gửi thêm một đoạn văn của một bạn học sinh giỏi về đề tài này mà những em có thể tham khảo Bài văn mẫu 3 Nhà chưng học Đacuyn từng nói khi về già “chưng học không tức là ngừng học”. Trên khắp mặt đất, từ nơi sa mạc tới chỗ tuyết phủ, từ người lớn tới trẻ nhỏ, khi mặt trời lên tới lúc đêm khuya bên đèn, đều có một cuộc hành hương vĩ đại về cội nguồn của tri thức liên tục diễn ra. Bởi vì sao vậy, một lý do thật giản dị “Tri thức là sức mạnh”. Câu nói ngắn gọn nhưng đã khẳng định vai trò, tầm quan trọng của tri thức. Tri thức, theo nghĩa hẹp, là tri thức tích lũy được về những ngành khác nhau của mỗi người nhờ học tập, rèn luyện và suy nghĩ. Theo nghĩa rộng, tri thức có thể hiểu là vốn hiểu biết về tự nhiên, xã hội và con người,… của nhân loại nói chung. tương tự, tri thức là nguồn sức mạnh trên mọi ngành hoạt động của đời sống con người, đồng thời cũng là sức mạnh xúc tiến sự phát triển của mọi quốc gia, dân tộc trên toàn cầu. Con người chúng ta không phải khi mới xuất hiện đã làm chủ muôn loài. Từ chỗ chỉ là một loài vật nhỏ bé, yếu ớt, hoang dại trong thiên nhiên tới chỗ có thể đứng thẳng được dậy, phóng thích hai chi trước, não phát triển- quá trình tiến hóa và tiến bộ ấy không phải khởi đầu từ những tri thức cổ sơ hay sao. Đó là tri thức sống, tri thức của lao động từ săn bắt, hái lượm, chăn nuôi trồng trọt rồi cải tiến nông cụ, loài người đã biết vượt lên đời sống bầy đàn tách thành bộ lạc, gia đình, họ tộc rồi vương quốc, quốc gia. Quá trình tiến hóa vĩ đại kia có phải tự thân mà có hay do những phản xạ vô điều kiện, khi ta cứ lặp đi lặp lại một việc như cái máy? Hoàn toàn trái lại, loài người chinh phục tự nhiên, phát triển những mối qua hệ xã hội được là nhờ đầu óc của mình “Tôi tư duy tức là tôi tồn tại” Đê những. Không có nhận thức, suy nghĩ, con người sẽ yếu đuối và vô nghĩa không khác gì một “cây sậy”. Nhờ có tri thức mà xã hội con người phát triển và ngày càng văn minh với những phát minh khoa học. Không phải ai sinh ra cũng tự phát minh được ra bóng đèn, tivi, tự khám phá được định luật vạn vật hấp dẫn,…Con người kế thừa thành tựu của tiền nhân để cải thiện điều kiện sống của mình, đồng thời biến những thành tựu ấy thành tiền đề cho những đột phá mới mẻ, to lớn hơn. Qua tri thức, con người có được sức mạnh để cải tạo thực tế. Khi chúng ta chỉ là những con vượn ăn lông ở lỗ trong hang động, có ngờ đâu rằng về sau con người đã được ăn no, mặc ấm, thậm chí ăn sang, mặc mốt, ở trong những tòa nhà chọc trời, đi xe tương đối ra đường, và có một đời sống văn minh với những tiện nghi đầy đủ nhất trong tương lai. Sự khác biệt đó là nhờ sức mạnh của tri thức. Tri thức là nền tảng cho hai cuộc cách mệnh khoa học kĩ thuật vĩ đại của toàn cầu, từ nông cụ thô sơ sử dụng máy tương đối nước, sử dụng điện, năng lượng hạt nhân, năng lượng sinh vật học…Con người không ngừng làm giàu có vốn tri thức của mình để trở nên mạnh mẽ hơn trong cuộc chiến với nghèo đói, lạc hậu, tăm tối, trong công cuộc chinh phục tự nhiên để có cuộc sống sung sướng, đầy đủ hơn. Thần kỳ biết bao, khi ngày xưa ta thờ cúng thần sông, thần suối, giờ ta bắt những con sông làm ra điện, xưa ta “lạy trời mưa xuống”, nay ta sử dụng tên lửa, xua mây, kéo mưa, gọi nắng; xưa ta chạy ma-ra-thôn tới kiệt sức để truyền tin thắng trận, nay chỉ một cú điện thoại hay kết nối internet, một buổi tường thuật trực tiếp, cả toàn cầu đã biết tới những sự kiện, tin tức quan trọng. Sức mạnh tri thức làm con người có thể đảo đổi những trật tự tưởng như nghìn năm bất dịch, làm được bao điều phi thường trong trong cuộc sống. Như khát khao bay lượn đã thành sự từ thực anh em nhà Wright, khát vọng thám hiểm mặt Trăng đã được hiện thực hóa từ phi thuyền Apollo. Bằng sự tiến bộ của khoa học và công nghệ, con người đã biến những điều tưởng như chỉ có trong tiểu thuyết khoa học giả tưởng thành sự thực. Cho tới bây giờ, loài người vẫn tự hào bởi cuộc đua tới nam cực giữa Scott và Amundsen, cuộc chinh phục đỉnh Everest của Hillary, cuộc hành trình trên biển bằng con tàu Beagle của Darwin, thậm chí cả những vùng đất xa xôi nhất như Đại Tây Dương, Bắc Cực đều đã ghi dấu bước chân con người. Những tuyệt tác nghệ thuật thi ca, nhạc họa, điện ảnh,… cũng là sản phẩm của sự sáng tạo, “sức mạnh tri thức”. Vốn tri thức đa diện ấy đã nâng tâm hồn ta lên, nhân đạo hóa con người để ta sống có trái tim, biết yêu chuộng cái đẹp, căm ghét cái xấu và hơn thế từ những gì được biết được đọc, ta có thêm năng lực tư duy và khát khao được tìm tòi, khám phá làm tăng thêm chất người và làm phong phú thêm cái Tôi cá thể của mỗi người. Mỗi con người ta chỉ giống như một con kiến bé nhỏ nhưng nếu như biết tích lũy góp nhặt tri thức như loài kiến kia thì sẽ có thêm ngày càng nhiều sức mạnh, vốn sống, vốn hiểu biết để đối mặt với những trắc trở, thử thách trong đời. Liệu có hành trang nào dành cho con người khi dấn thân vào cuộc sống khó khăn cần thiết hơn tri thức. Tri thức giúp chúng ta hoàn thiện mình, dũng cảm và tự tin hơn khi tham gia vào những hoạt động xã hội. Để làm giàu vốn tri thức của mình, con người có thể có rất nhiều môi trường để học tập học không chỉ ở trường mà còn qua sách vở, thầy cô, bè bạn, cuộc sống. Một triết nhân Hy Lạp cổ đại đã nói như sau “Mỗi người tôi gặp đều có những điểm hay hơn tôi, đáng cho tôi học tập”. Thực tế cũng chứng minh, những người đạt tới đỉnh cao của vinh quang đều có vốn sống, vốn hiểu biết phong phú và nhu cầu cầu thị lớn. Những kẻ không chịu hiểu câu nói trên, cố tình trốn tránh, coi việc tích lũy tri thức là thừa, vô dụng thì thế tất sẽ nhận được hậu quả không mong muốn. Còn có những người mới học được chút ít tri thức đã tự coi là đủ, không chịu nỗ lực hoặc chỉ chăm chăm học trong sách vở mà không chịu tìm tòi từ cuộc sống thì trước sau tri thức cũng rơi rớt, trở thành “ếch ngồi đáy giếng”, không thể là sức mạnh. nếu như ai đã từng nghe tới khi báu của vua Solomon thì đều biết kho báu đó chính là sách và tri thức. Phải chăng vì vậy mà Salomon trở thành vị vua thông thái nhất mọi thời đại, khiến hậu thế đều phải kính cẩn cúi đầu? “Tri thức là sức mạnh” là một lời khẳng định cũng là chân lý vĩnh hằng ngày càng được kiểm chứng chắc chắn theo thời gian. Bài văn mẫu 4 Để tự tin vững bước trên tuyến đường vào cuộc sống, hành trang quý giá nhất của chúng ta chính là tri thức. Đã có một nhà khoa học người Anh ở thế kỉ XVI – XVII tên là Phơ-răng-xít Bê-cơn phát biểu rằng “Tri thức là sức mạnh”. Câu nói nổi tiếng của ông đã thôi thúc tôi phân tích sức mạnh trong tri thức là gì và bây giờ chúng ta hãy khám phá xem sức mạnh bí mật ấy nhé! Tri thức là những tri thức, hiểu biết mà chúng ta tiếp thu được ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Thế nhưng tri thức không những tồn tại ở đó, nó còn bao gồm cả kinh nghiệm, bài học cuộc sống mà chúng ta tích lũy được khi trải qua một quá trình nào đó trong cuộc sống. Xét trên nhiều phương diện, trên mọi ngành của đời sống thì tri thức là sức mạnh quan trọng nhất mà mỗi người cần trang bị cho mình như một vũ khí để đấu tranh trên mặt trận tri thức. Để minh chứng cho việc xem tri thức là sức mạnh, chúng ta hãy lật lại những trang sử sách hào hùng của dân tộc Việt Nam. Từ một nước An Nam bé nhỏ trải qua một nghìn năm đô hộ dưới tay của giặc Tàu, sắp một trăm năm bị áp bức, bóc lột bởi bọn thực dân Pháp, hai mươi mốt năm Mỹ thay chân cho Pháp. Nước ta đã đấu tranh giành lại độc lập bằng chính sức mạnh kết đoàn, bằng chính sức mạnh tri thức của toàn thể dân tộc Việt Nam. Và vị tướng then chốt nắm giữ toàn bộ sức mạnh tri thức không ai khác đó là vị tướng tài tình, sáng suốt của dân tộc, chủ toạ Hồ Chí Minh. Ra đi với hai bàn trắng tay và trở về sau ba mươi năm bôn ba nước ngoài, Người đã trang bị cho mình một kho tàng tri thức để đưa dân tộc ta thoát khỏi ách đô hộ của bọn thực dân tàn ác. Người dân Việt Nam vẫn còn nhớ như in ngày mà Người đã tuyên bố hùng hồn trước toàn thể quốc dân và toàn cầu “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả ý thức và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Chính nhờ sự thông thái, hiểu biết sâu rộng của Người, đã dẫn dắt dân tộc Việt Nam đi theo tuyến đường ánh sáng của cách mệnh và giành được độc lập, tự do. Đây là một minh chứng vàng cho câu nói “Tri thức là sức mạnh”. không những thế, chúng ta không thể không nói tới vấn đề thiếu hụt tri thức vẫn còn luôn tồn tại trong xã hội. nếu như một người thiếu tri thức, thiếu trang bị kĩ năng sống cho mình thì khi bước ra đời, họ sẽ bị thua thiệt về mọi mặt, mọi ngành trong cuộc sống. Cho một ví dụ đơn thuần như câu ngạn ngữ “Ếch ngồi đáy giếng”. nếu như như con ếch suốt ngày chỉ ngồi dưới đáy giếng thì làm sao nó có thể biết được trên đáy giếng còn có bao nhiêu điều thú vị và tốt đẹp. Tri thức là vốn hiểu biết không bao giờ cạn kiệt. Nó giúp chúng ta tự tin hơn trong giao tiếp, tinh thông về cuộc sống…Bản thân tôi luôn nỗ lực rút ra những kinh nghiệm, những bài học quý giá từ sách vở, từ cuộc sống xung quanh mình. Vì tận sâu trong tôi luôn ghi nhớ rằng, đó chính là hành trang quan trọng nhất để tôi vững bước vào đời. Và tôi mong rằng những bạn cũng như thế, đừng bao giờ trì hoãn việc học dù chỉ là một giây! Bài văn mẫu 5 Trong bất kì xã hội hay thời kỳ nào thì vai trò của trí thức đều vô cùng quan trọng. Tri thức là một nhân tố vô cùng thiết yếu tạo nên sự giàu mạnh của một quốc gia, dân tộc, là nền tảng cho sự phát triển. Đặc biệt, trong xã hội ngày nay, tri thức thực sự ngày càng khẳng định được vai trò lớn của mình đối với đời sống con người. Vậy tri thức là gì? Tri thức là khái niệm chỉ những hiểu biết về khoa học, văn học, lịch sử, đời sống xã hội mà con người chiếm lĩnh được. Là những hiểu biết của nhân loại được đúc kết quả hàng trăm thế kỷ phát triển từ thời xa xưa tới ngày nay. Vốn trí thức của nhân loại là vô bờ bến như những đại dương mênh mông nước, dồi dào sự sinh sôi và phát triển. Về chính trị, đối với mỗi quốc gia, nguồn nhân lực có tri thức dồi dào luôn là niềm tự hào và tạo nên sức mạnh lớn. Ngày xưa, tổ tiên ta đã có biết bao hào kiệt tài năng với tài tình thao lược, võ giỏi, văn hay. Bởi vậy mà ta lực lượng yếu vẫn thắng địch giành lại độc lập cho dân là nhờ vào trí, với mưu lược, vào những chiến thuật khôn ngoan của những vị minh quân biết nhìn xa trông rộng, hiểu thế thời, biết địch, biết ta, trăm trận trăm thắng. Xã hội ngày nay, khi quốc gia được thái bình, nền chính trị cần phải được xây dựng vững mạnh, quân đội phải được thao luyện, phải biết vạch ra những chiến lược trong tương lai. tương tự, quốc gia cần có những người có tài năng và đức độ, hệ thống của nhà nước phải là những cán bộ nòng cốt tài năng, có năng lực thực sự với nguồn tri thức và sức tinh thông lớn để lãnh đạo quốc gia. Tức là những người tài năng nhất, giỏi giang nhất là những người có một tầm hiểu biết rộng, có vốn trí thức lớn để phục vụ quốc gia, phục vụ nhân dân, lo cho dân, lo cho nước. Về kinh tế, tri thức giữ vai trò vô cùng lớn, đặc biệt là trong nền kinh tế tri thức hòa chung trong sự phát triển cả toàn cầu. Tri thức trở thành một nguồn nhân tố quan trọng, chất xám trở thành ngưỡng năng lượng đưa quốc gia đi lên, sánh vai với cường quốc năm châu. những ngành công nghệ thông tin ngày càng phát triển thay thế cho những ngành công nghiệp nặng, lấy sức lao động của con người làm hàng hoá. Những nhân tài về công nghệ thông tin, những bằng sáng chế độc quyền hay những sáng chế khoa học xúc tiến sự phát triển của khoa học sản xuất ra đời đều được sáng tạo nhờ tri thức trên những nguyên lý cơ bản nhất. Đối với xã hội, văn hoá giáo dục, tri thức cũng góp tiếng nói của mình vào sự ổn định phát triển. Một quốc gia có người dân đạt trình độ cao về trí thức thì tỷ lệ thất nghiệp sẽ ít đi, mức sống của người dân được cải thiện hơn, con người được hạnh phúc hơn. Xã hội ổn định, không bị những tệ nạn ma túy hay vấn nạn cướp bóc, trộm cướp cũng được hạn chế hơn, nhờ vậy mà quốc gia trở nên văn minh và giàu đẹp hơn. Tri thức càng được coi trọng thì nền giáo dục càng được chú trọng lên hàng đầu, góp phần xây dựng một môi trường giáo dục lành mạnh, an toàn và phân phối được cho quốc gia những nhân tài đưa quốc gia ngày càng vững mạnh hơn, góp phần tăng vị thế trên toàn cầu. Đối với mỗi người, tri thức lại càng cần thiết hơn bao giờ hết. Không có ai không học mà lại thành tài cả. Tất cả mỗi người muốn có cuộc sống đủ đầy, muốn tăng chất lượng đời sống và muốn sống có ích đều phải học tập. Bởi trí thức mang tới cho ta những hiểu biết thuộc thực chất của những hiện tượng đời sống, giúp ta phân tích sâu về nguồn cội, về quá trình tiến hoá và cả những phát minh vĩ đại trên toàn cầu. Tri thức đưa ta tới những vùng trời mới của sư hiểu biết, thôi thúc ta khám phá , sáng tạo ra những cái mới cái hay. Tri thức giúp bản thân ngày càng hoàn thiện hơn, biết lựa chọn lựa những tinh hoa để tiếp nhận, rời xa những xấu xa, ích kỷ, nhỏ nhen tầm thường trong cuộc sống, biết “gạn đục khơi trong”, biết yêu thương nhiều hơn. Tri thức còn là bản lề để mỗi người nỗ lực cho tương lai, là nền tảng vững chắc để phát triển trí tuệ và kỹ năng thực hành, là ngọn đèn soi sáng trong đêm tối, là hành trang dẫn lối ta vào đời. Có thể thấy, thiếu tri thức là một lỗ hổng vô cùng lớn. Vậy mà, trên thực tế, ta vẫn thấy nhiều bạn trẻ chỉ miệt mài ăn chơi, học đòi mà không học hành. Một số bạn thì có lối suy nghĩ rằng không học vẫn có thể thành công, theo mình đây là một cách nghĩ sai phép. Mọi tuyến đường đi tới thành công đều thông qua học tập, không có học tập không có thành tựu. Có lý thuyết vững chắc mới có thực hành, có học mới thành tài được. Vì vậy, chúng ta là những người trẻ, những hy vọng tương lai của nước nhà, cần hiểu được tầm quan trọng của trí thức, nỗ lực học tập thật giỏi, trau dồi, rèn luyện cả đạo đức, tri thức và sức khỏe của bản thân mình để phát triển một cách toàn diện. Biết nuôi dưỡng lý tưởng cao đẹp, những ước mơ lớn lao, vượt khỏi những ham mê thông thường hay những nhỏ nhen ích kỷ, những trắc trở của thực tiễn đời sống để vươn lên học tập. “Tri thức là sức mạnh”, hãy trau dồi tri thức để mang tới sức mạnh, lợi thế cho chính mình, cho quốc gia, dân tộc mình. Hãy là một vì sao nhấp nhánh tài năng, bản lĩnh và một trái tim đẹp. Bài văn mẫu 6 Trên đời không gì vĩ đại bằng con người, trong con người không gì vĩ đại bằng tri thức. Chính nhờ việc biết tích lũy tri thức qua hàng trăm triệu năm, không ngừng sàng lọc và bồi tích nó, con người đã từng bước thống trị và làm thay đổi toàn cầu này. Khẳng định sức mạnh của tri thức, Lênin nói rằng “Tri thức là sức mạnh; ai có tri thức, người đó có sức mạnh”. Tri thức là toàn bộ hiểu biết của con người từ xưa tới nay về toàn cầu xung quanh, ghi được chép bằng văn tự vào trong sách vở, được truyền tụng từ người này sang người khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Hiểu đơn thuần, tri thức là những dữ kiện, thông tin, sự mô tả hay kĩ năng có được nhờ trải nghiệm hay thông qua giáo dục. Tri thức đã xuất hiện từ rất lâu và nó luôn tồn tại, phát triển song song cùng với con người. Từ một con vượn như hàng nghìn loài động vật khác, ta dần tích lũy kĩ năng, nhận thức để hái lượm rồi săn bắt, để tạo ra lửa rồi dao kéo. Từ việc thờ cúng thần sông, thần núi, ta đã biến nó trở thành những nhà máy thủy điện phục vụ cho đời sống con người. Nhờ sức mạnh của tri thức, nhân loại ngày nay đã có thể bay như loài chim, hô mưa gọi gió, tới những vùng đất xa xôi hay thậm chí là du hành ra vũ trụ, những điều mà khi xưa được xếp vào trong giả tưởng. toàn cầu ngày càng phát triển, kho tàng tri thức ngày một dâng lên. nếu như không muốn là thành phần thụt lùi, nếu như không muốn trở thành “vượn cổ” trong một toàn cầu văn minh, chúng ta không còn tuyến đường nào khác ngoài việc học, trau dồi tri thức, tích lũy kinh nghiệm. Để từ đó có thể hòa nhập với toàn cầu. Hầu hết những quốc gia ngày nay đều hiểu rõ về trị giá của tri thức. “Đưa giáo dục lên hàng đầu” là khẩu hiệu của mỗi quốc gia. Vị lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh từng nói “ non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có thể sánh vai với những cường quốc năm châu được hay không, đó là nhờ vào phần lớn công học tập của những cháu.” Giáo dục trong nhà trường là bước trước hết đưa con người tới sắp hơn với tri thức, giúp con người hiểu rõ tầm quan trọng mà tri thức mang lại. Thực trạng hiện này, nhìn chung những học sinh sinh viên trên mọi miền quốc gia đã có cài nhìn đúng đắn về trị giá của tri thức. những bạn học với niềm say mê về tri thức nhân loại. Tích cực tìm tòi tham khảo, không ngừng trau dồi tri thức, kĩ năng ở nhiều ngành. Một thế hệ học sinh sinh viên năng động, sáng tạo là hình ảnh chúng ta có thể thấy được ở những trường học ngày nay. không những thế cũng không ít thanh thiếu niên có cái nhìn méo mó, đánh giá sai về sức mạnh của tri thức. Họ học hành chống đối, xem việc tích lũy tri thức là việc làm không cần thiết. Ngoài ra còn một số thành phần có cái nhìn hạn hẹp, đề cao trị giá đồng tiền mà quên đi tầm quan trọng mà học vấn mang lại. “Học để thi”, “học để có tấm bằng đẹp”, “học để có được một công việc nhàn hạ sau này” là những câu nói của không ít những bạn học sinh, thậm chí là một số thầy cô trong nhà trường. Chính vì vậy mà khi ra trường, khi có được một công việc ổn định, họ đã quên đi tri thức, quên đi việc mình vẫn cần phải học, vẫn cần đọc và trau dồi tri thức. Vì tri thức là vô tận. ngừng việc học tức là chúng ta đã ngừng phát triển bản thân. ngừng việc học tức là chúng ta đang thụt lùi so với vòng xoay của toàn cầu. trị giá của tri thức là điều chúng ta không cần phải bàn cải. Tuy nhiên, tiếp nhận tri thức thế nào và vận dụng chúng ra làm sao không phải bất kì một ai cũng biết. Đừng biến bản thân thành “ếch ngồi đáy giếng”, tự cao tự đại khi sở hữu được một phần tri thức nhỏ bé. Lĩnh hội tri thức là một chuyện, nhân biết và đưa nó vào đời sống lại là một hành trình khác. Khoảng cách xa nhất là khoảng cách từ bộ não tới cánh tay của mình. Hãy là một người thông thái, biết trau dồi tri thức và rèn luyện chúng mỗi ngày. Chắc rằng tri thức sẽ tô vẽ lên cuộc sống của bạn nhiều điều thú vị. Bởi tri thức là sức mạnh nên hãy để sức mạnh đó đưa mỗi chúng ta ra xa hơn ranh giới của bản thân mình. Hy vọng những mẫu ” Nghị luận xã hội về tri thức là sức mạnh hay nhất ” trên đây GrabHanoi sẽ mang lại cho các bạn đọc những tham khảo hữu ích. Đừng quên theo dõi GrabHanoi để được liên tục cập nhật những bài văn mẫu mới nhất bạn nhé Nguồn Danh mục Văn mẫu lớp 9 Đây là bài viết tham dự “Ngày Xã hội học Nam Bộ 2013” tổ chức ngày 11/1/2013 tại. Trường Đại học Tôn Đức Thắng. Bài viết cho thấy quan niệm về việc sản xuất tri thức của truyền thống xã hội học. Đặc điểm của tri thức và tính quy luật của xã hội học được đề cập. Tính thực tiễn, phê phán và trung lập của xã hội học cũng là đề tài gây nhiều tranh luận. Và cuối cùng,bài viết phác họa vai trò và việc sản xuất ra tri thức xã hội học trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam Discover the world's research25+ million members160+ million publication billion citationsJoin for free TAÏP CHÍ KHOA HOÏC XAÕ HOÄI SOÁ 4176-2013 22 Xà HỘI HỌC VỀ TRI THỨC VÀ TRI THỨC Xà HỘI HỌC TRONG Xà HỘI ĐƯƠNG ĐẠI NGUYỄN XUÂN NGHĨA TÓM TẮT Đây là bài viết tham dự “Ngày Xã hội học Nam Bộ 2013” tổ chức ngày 11/1/2013 tại Trường Đại học Tôn Đức Thắng. Bài viết cho thấy quan niệm về việc sản xuất tri thức của truyền thống xã hội học. Đặc điểm của tri thức và tính quy luật của xã hội học được đề cập. Tính thực tiễn, phê phán và trung lập của xã hội học cũng là đề tài gây nhiều tranh luận. Và cuối cùng, bài viết phác họa vai trò và việc sản xuất ra tri thức xã hội học trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam. Ngày Xã hội học Nam Bộ năm 2013 đặt ra chủ đề trao đổi “Vai trò và tiếng nói của tri thức xã hội học trong xã hội đương đại”1. Muốn trả lời cách cơ bản cho vấn đề nêu ra, trước hết phải tìm hiểu truyền thống xã hội học đã quan niệm tri thức được sản xuất ra như thế nào, đâu là đặc trưng của tri thức xã hội học, tri thức xã hội học có mang tính khoa học không? Tri thức xã hội học để làm gì? Vai trò và việc sản xuất ra tri thức xã hội học ở Việt Nam hiện nay như thế nào? 1. Xà HỘI HỌC VỀ TRI THỨC Các nhà xã hội học tiền phong đều ít nhiều đề cập đến sự hình thành tri thức và tri thức xã hội học, tuy nhiên thuật ngữ “xã hội học về tri thức” sociology of knowledge chỉ được sử dụng lần đầu tiên vào năm 1924 và 1925 bởi Scheler 1874-1928 và Mannheim 1893-1947, như là một chuyên ngành của ngành xã hội học nhằm tìm hiểu nguồn gốc xã hội của các ý tưởng McCarthy, 2000, tr. 2953. Bộ môn xã hội học về tri thức còn có thể được định nghĩa như một chương trình nhằm giải thích từ các biến số xã hội một số ý tưởng, lý thuyết và tổng quát hơn một số sản phẩm tinh thần Boudon, 2003, tr. 43. Marshall cho rằng xã hội học về tri thức quan tâm đến mối liên hệ giữa tri thức và cơ sở xã hội. Tuy nhiên, thế nào là tri thức, thế nào là cơ sở xã hội thay đổi từ tác giả này sang tác giả khác Marshall, 1998, tr. 342-343. Trong số các nhà xã hội học tiền phong, E. Durkheim cho rằng tôn giáo có chức năng nhận thức bằng cách cung cấp cho ta biểu tượng về tự nhiên và xã hội. Ngay trong phần dẫn nhập của tác phẩm “Những hình thái sơ khai của đời sống tôn giáo”, ông đã đặt tiêu đề “Xã hội học tôn giáo và lý thuyết về tri thức”. Chính qua tô-tem giáo mà ta hiểu khái niệm xã hội như là một tổng thể. Và đi xa hơn, theo ông, những phạm trù tinh thần cơ bản, qua chúng, ta nhìn thế giới một cách trật tự, đã bắt nguồn từ phương thức ta tổ chức xã hội. Trong bài báo “Các biểu tượng cá nhân và các biểu Nguyễn Xuân Nghĩa. Tiến sĩ. Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh. NGUYỄN XUÂN NGHĨA – Xà HỘI HỌC VỀ TRI THỨC VÀ… 23tượng tập thể” 1898, ông giải thích các biểu tượng tập thể trước hết tùy thuộc các cơ sở hình thái của xã hội các biểu tượng sơ cấp, nhưng các biểu tượng thứ cấp đặt cơ sở trên các biểu tượng sơ cấp, một khi phát triển, chúng có tính độc lập tương đối đối với cái cơ sở xã hội. Trong một bài báo khác, với sự cộng tác của Mauss, “Các hình thái sơ khai của sự phân loại”, qua nghiên cứu các hệ thống phân loại ở các bộ lạc châu Úc, tổ chức của người Zuni ở Mêhicô, thuật bói toán của người Trung Quốc, ông đi đến nhận định hình thái cấu trúc của một nhóm xã hội hình thành nên khung khổ qua đó tương quan giữa các sự vật được tư duy. Ông đi đến kết luận xã hội học có thể giải thích sự phát sinh và vận hành của các thao tác logic ý tưởng về sự phân loại tất yếu kéo theo ý tưởng về thứ bậc hiérarchie, mà thứ bậc là một sự kiện xã hội hay nói cách khác thứ bậc xã hội là nơi xuất phát ý niệm phân loại. Nhịp điệu của cuộc sống xã hội là cơ sở của phạm trù thời gian; không gian sinh sống, xã hội là cơ sở của phạm trù không gian, tính tổng thể... Durkheim, [1912], 1991, tr. 39-68. Qua những tác phẩm xã hội học tôn giáo, M. Weber gán một tầm quan trọng đặc biệt cho những điều kiện vật chất trong việc hình thành các niềm tin tôn giáo. Tuy nhiên khác với Durkheim, Weber quan niệm xã hội học và lịch sử thuộc các khoa học về văn hóa rất khác biệt với các khoa học tự nhiên, do đó khó áp dụng các phương pháp thực chứng. Theo R. Aron, đặc trưng của các khoa học về văn hoá, đối với Weber, bao gồm sự thông hiểu, tính lịch sử và liên quan đến văn hoá. Aron, 1967, tr. 504. Các khoa học xã hội và nhân văn có đối tượng là nghiên cứu văn hoá. Khi nói đến văn hóa thì trước hết phải nghĩ đến tập hợp các giá trị. Như vậy làm thế nào các khoa học xã hội nói chung và xã hội học nói riêng có được tính khách quan? Weber đã đưa ra sự phân biệt giữa “phán đoán về giá trị” jugement de valeur, Werturteil và “quan hệ với giá trị” rapport aux valeurs, Wertbeziehung Weber, 1965, Tiểu luận thứ tư, “Tiểu luận về ý nghĩa của “Tính trung lập về giá trị” trong các khoa học xã hội học và kinh tế học” 1917. Theo ông, phán đoán về giá trị có tính chủ quan, do đó nhà xã hội học với tư cách là nhà khoa học không được có những phán đoán này trừ giai đoạn chọn đề tài nghiên cứu, còn khái niệm “quan hệ với giá trị” có nghĩa là khi nghiên cứu thực tại xã hội, nhà xã hội học phải quan tâm đến vị trí của những giá trị có liên quan đến hiện tượng xã hội được phân tích mà không đưa ra phán đoán qui phạm về những giá trị này. Hoạt động xã hội không bị định hướng bởi một giá trị nào ngoài sự thật. Đó là quan niệm của ông liên quan đến tính trung lập về giá trị neutralité axiologique . 1Tri thức trong tư tưởng của Marx gắn liền với lý thuyết về ý hệ. Ý hệ ở đây, được hiểu là thế giới quan cho phép hiểu được thế giới và thống trị nó và thế giới quan này được hình thành một cách vô thức trong các tầng lớp xã hội, tùy thuộc vào các lợi ích kinh tế của các tầng lớp này. Các thành viên của một tầng lớp nhất định - đặc biệt tầng lớp thống trị - thường có khuynh hướng đánh đồng quyền lợi của tầng lớp mình với quyền lợi chung của xã hội. Vấn đề được đặt ra, xã hội học là một khoa học hay là một ý hệ? Khi nào thì một NGUYỄN XUÂN NGHĨA – Xà HỘI HỌC VỀ TRI THỨC VÀ… 24 phân tích xã hội học trở thành một phân tích ý hệ? Khi nào thì một lý thuyết “khoa học” được một hệ thống quyền lực sử dụng như là một công cụ hữu hiệu? Trong chừng mực nào thì những trí thức đã tạo ra các ý hệ ý thức được sự “vong thân” của mình? Đây là những câu hỏi rất khó giải đáp mà bộ môn xã hội học về tri thức đặt ra Mendras, 2001; Nguyễn Xuân Nghĩa, 2009, tr. 22. Tiếp theo quan điểm của các nhà xã hội học tiền phong, xã hội học về tri thức phát triển, nhưng vẫn mang ba dấu ấn lớn của xã hội học Pháp với truyền thống cấu trúc của Durkheim, của xã hội học Đức với dấu ấn của Marx và Mannheim và truyền thống thực dụng Mỹ với Dewey, Mead. Từ những năm 1990, hình thành một khuynh hướng được gọi là “xã hội học mới về tri thức” new sociology of knowledge, rời bỏ quan điểm duy vật và cấu trúc về tri thức và hướng về các lý thuyết ký hiệu học semiotic theories đặt trọng tâm vào việc nghiên cứu các cách thức mà những ý nghĩa đa dạng của xã hội được truyền thông và sản sinh ra, và đặt trọng tâm vào việc nhấn mạnh tính tự chủ của các thực hành văn hóa mà ngôn ngữ là một thí dụ. Khuynh hướng này cũng nghiên cứu các loại hình cụ thể về tổ chức xã hội đã tổ chức tri thức như thế nào hơn là tìm hiểu xuất xứ xã hội và các quyền lợi của các nhóm có liên quan ví dụ qua các phương tiện truyền thông tri thức đã được bảo tồn, tổ chức, quảng bá như thế nào. Với các lý thuyết mới về quyền lực và thực tiễn xã hội - như của M. Foucault, P. Bourdieu - khuynh hướng này cũng nghiên cứu tri thức đã duy trì thứ bậc xã hội như thế nào và các kỹ thuật của quyền lực liên kết với tri thức như thế nào McCarthy, 2000, tr. Vì đối tượng nghiên cứu rất rộng - tính chất xã hội của tri thức - nhìn chung, xã hội học về tri thức đi theo hai lối tiếp cận. Lối tiếp cận rộng broad approach bao gồm một số công trình về xã hội học và lý thuyết xã hội nghiên cứu tính chất xã hội của tri thức và tinh thần, và lối tiếp cận cụ thể particular approach chỉ bao gồm những công trình của các chuyên gia về xã hội học tri thức Boudon, 2003, tr. 43-44; McCarthy, 2000, tr. TRI THỨC Xà HỘI HỌC VÀ VẤN ĐỀ ĐI TÌM QUY LUẬT Xà HỘI Vào thế kỷ XIX, khi xã hội học đòi vị thế của một khoa học độc lập, có nghĩa là xã hội học đã khoác lên vai mình sứ mạng đi tìm những qui luật chung về sự vận hành và biến chuyển của xã hội. Tuy nhiên, đứng trước sứ mạng này các nhà xã hội học đương đại đưa ra những ý kiến khác nhau. Những tác giả như R. Boudon, M. Crosier, J. G. Padioleau tỏ vẻ nghi ngờ. Boudon viết “Xã hội học thường xuyên bị cám dỗ bởi một ảo tưởng tìm ra chìa khóa của biến chuyển xã hội, để từ đó, làm giảm sự không chắc chắn về tương lai... Ngày nay, đại bộ phận các nhà xã hội học đều được thuyết phục rằng việc tìm kiếm những qui luật của lịch sử và những yếu tố thống trị biến chuyển đang dẫn đến một ngõ cụt” Boudon, 1979, tr. 19, Durand & Weil, 2002, tr. 724. Ngược lại, một số trào lưu lý thuyết khác vẫn xem ý định đi tìm tính qui luật, các qui luật xã hội là đối tượng của xã hội học. T. Parsons, cha đẻ của lý thuyết cơ cấu-chức năng structuro-functionalism, đã đưa ra NGUYỄN XUÂN NGHĨA – Xà HỘI HỌC VỀ TRI THỨC VÀ… 25một lý thuyết tổng quát về hành động xã hội. R. Aron cũng định nghĩa xã hội học là “khoa học về hành động của con người. Nó vừa mang tính thấu hiểu về những ứng xử của cá nhân và tập thể; vừa mang tính giải thích, nó thiết lập tính qui luật và đưa những ứng xử bộ phận vào một tập hợp vốn đem lại ý nghĩa cho những ứng xử này” Aron, 1976, tr. 598. A. Giddens cho rằng, nếu hiểu khoa học như là việc sử dụng các phương pháp có tính hệ thống của các nghiên cứu thực nghiệm, là sự phân tích các dữ kiện, suy nghĩ lý thuyết và đánh giá logic về các lập luận để phát triển một bộ phận tri thức về một lãnh vực cụ thể, thì xã hội học hoàn toàn là một nỗ lực mang tính khoa học Giddens, 2009, tr. 41. Các nhà xã hội học theo thuyết cấu trúc, thuyết hệ thống, các nhà xã hội học mác-xít đều xem trọng tâm nghiên cứu của mình là đi tìm tính quy luật giữa các hiện tượng xã hội. Tuy nhiên, phải thấy nghiên cứu về con người khác với việc nghiên cứu các đối tượng trong khoa học tự nhiên nhà xã hội học có thể đặt câu hỏi và khách thể nghiên cứu có thể trả lời trực tiếp những vấn đề mà người nghiên cứu quan tâm. Đây là ưu điểm có thể làm gia tăng tính giá trị validity - nghiên cứu có thực sự đo lường cái nó muốn đo lường không và tính đáng tin cậy reliability - các nhà nghiên cứu khác cũng có thể áp dụng và đi đến cùng những kết luận của nghiên cứu xã hội và của khoa học xã hội nói chung. Nhưng mặt khác, khách thể nghiên cứu của xã hội học là những con người, nên có “tính phản ứng” - có nghĩa là không ứng xử bình thường khi biết đang bị nghiên cứu và có thể đưa ra ứng xử, câu trả lời không trung thực. Đây là “khả năng” mà những đối tượng của khoa học tự nhiên không thể có. Cũng chính vì vậy có những nhà xã hội học đã nói đến “lời nguyền”, “tai họa” malédiction của các khoa học về con người là chúng có liên quan đến một “đối tượng biết nói” “un objet qui parle”. Do đó, có nguy cơ từ cả hai phía, chủ thể và khách thể nghiên cứu, là đưa ra các “tiền khái niệm” prénotion, các định kiến làm lệch lạc thông điệp trao đổi Bourdieu, Chamboredon, Passeron, 1968, tr. 64. P. Bourdieu cũng nói đến các quy luật, nhưng ông tương đối hóa tầm ảnh hưởng của chúng “Trong thực tế, khoa học phải biết rằng nó chỉ ghi nhận, dưới hình thức của các qui luật mang tính khuynh hướng, cái logic vốn là đặc trưng của một trò chơi nào đó, vào một thời điểm nhất định. Trò chơi có lợi cho những kẻ đang thống trị cuộc chơi, những kẻ, trên nguyên tắc cũng như trong thực tế, đang xác định các quy tắc của cuộc chơi” Bourdieu, 1984, tr. 45. 3. TRI THỨC Xà HỘI HỌC VÀ HÀNH ĐỘNG TÍNH THỰC TIỄN, TÍNH PHÊ PHÁN VÀ TÍNH TRUNG LẬP Tính thực tiễn và trách nhiệm của nhà xã hội học Quan điểm của các nhà xã hội học mác xít là rõ ràng, Marx viết về luận đề thứ XI trong Luận đề về Feuerbach như sau "Các nhà triết học chỉ diễn giải thế giới khác nhau; vấn đề là ở chỗ cải tạo thế giới". Luận đề này được các nhà nghiên cứu mác-xít áp dụng cho cả xã hội học. Durkheim cũng từng viết “Chúng tôi cho rằng những nghiên cứu của chúng ta không đáng mất công một giờ nếu chúng NGUYỄN XUÂN NGHĨA – Xà HỘI HỌC VỀ TRI THỨC VÀ… 26 chỉ có lợi ích tư biện. Nếu chúng ta kỹ lưỡng phân ra các vấn đề lý thuyết và các vấn đề thực tiễn, không phải nhằm bỏ qua những vấn đề sau này ngược lại, chính nhằm giải quyết chúng tốt hơn” Durkheim, 1986, tr. XXXIX. Nói về trách nhiệm và vai trò của nhà xã hội học, Durkeim khẳng định “Các nhà văn và nhà bác học đều 2là công dân, vì vậy rõ ràng họ có bổn phận nghiêm ngặt phải tham gia đời sống công cộng. Vấn đề phải biết là dưới hình thức nào, biện pháp nào... Theo suy nghĩ của tôi, hành động của chúng ta thể hiện, nhất là, thông qua sách vở, hội thảo, các công trình giáo dục quần chúng. Trước hết, chúng ta phải là những nhà tư vấn, những nhà giáo dục. Vai trò của chúng ta là nhằm giúp đỡ những người cùng thời với chúng ta nhận ra chính mình trong ý tưởng và trong cảm xúc của họ hơn là nhằm quản lý họ...” Durkheim, 2002, tr. 41-42. Từ in nghiêng là của Durkheim. Sau này, Bourdieu cũng lập lại ý tưởng trên “Xã hội học không đáng mất công một giờ, nếu nó chỉ có mục đích khám phá những mánh lới giật dây làm cho những cá nhân mà nó quan sát cử động, nếu xã hội học quên rằng nó có liên quan đến những con người, cho dù họ, cũng giống như các con rối, chơi trò chơi mà không biết các quy tắc, tóm lại, nếu nó không cho mình nhiệm vụ khôi phục lại cho những con người này ý nghĩa hành vi của họ” Bourdieu, 2002, tr. 128. Tri thức xã hội học, như vậy, có vai trò giải phóng và nó cung cấp các phương tiện để tác động hiệu quả lên thực tại xã hội. Chính vì vậy mà Bourdieu thường lập lại câu nói của A. Comte “Khoa học đưa đến dự kiến, dự kiến đưa đến hành động” Bouveresse, 2003, tr. 224. Để làm được điều nêu trên, xã hội học phải khám phá ra cái bị che giấu hay không che giấu qua ngôn ngữ thường ngày Bourdieu, khám phá ra ý nghĩa được che giấu đằng sau các hiện tượng xã hội Tourraine. Đó cũng là chức năng khai minh của xã hội học. Tri thức xã hội học và thực tiễn Tuy nhiên, tư cách và ứng xử của nhà khoa học và người tham gia hoạt động chính trị là không giống nhau. Weber đã nói đến việc chính trị hóa khoa học. Weber đặt vấn đề, người trí thức có ứng xử trong lãnh vực chính trị cũng như trong lãnh vực khoa học không. Và ông đưa quan điểm rõ ràng “Người ta nói, và tôi cũng tán thành, rằng chính trị không có chỗ đứng trong giảng đường của một trường đại học” Weber, 1963, tr. 79. Ông cũng thêm rằng, những nhà tiên tri, những nhà chính trị mị dân không thể có một vị thế trong trường đại học và phải nói với họ rằng “Hãy đi ra đường phố và diễn thuyết với quần chúng” Weber, 1963, tr. 82. Theo ông, giảng đường là nơi cung cấp những tri thức khách quan, khoa học và giảng viên không được lợi dụng để áp đặt những chọn lựa, những xác tín ý hệ của riêng mình cho người học. Ông khẳng định “Tôi sẵn sàng cung cấp cho quý vị bằng chứng thông qua các công trình của các sử gia của chúng ta rằng, mỗi khi một nhà khoa học đưa ra can thiệp bằng sự phê phán giá trị của riêng mình, thì không còn có sự thông hiểu toàn diện về các sự kiện” Weber, 1963, tr. 82 . 3Thế nào là thực tiễn và việc đòi hỏi xã hội học phải thực tiễn, phải phục vụ xã hội có phù hợp với chức năng phê phán của xã NGUYỄN XUÂN NGHĨA – Xà HỘI HỌC VỀ TRI THỨC VÀ… 27hội học không? Bourdieu đưa ra quan điểm của mình “Đòi hỏi nó xã hội học phải phục vụ cái gì đó, chính là luôn luôn đòi hỏi nó phải phục vụ quyền lực. Trong khi chức năng khoa học của nó là thấu hiểu xã hội mà việc khởi đầu là nghiên cứu quyền lực. Một động tác không trung lập về mặt xã hội. Và không nghi ngờ gì nó thực hiện một chức năng xã hội. Trong số các lý do khác, không có quyền lực nào không nhờ một phần hiệu quả của nó do thiếu hiểu biết về những cơ chế đã đặt nền tảng cho nó” Bourdieu, 1984, tr. 28. Tri thức xã hội học tính phê phán và tính trung lập Lịch sử cho thấy các nhà xã hội học luôn luôn có một chọn lựa khó khăn giữa hai cực về chức năng của xã hội học hoặc đứng về quan điểm phê phán hoặc đề cao tính trung lập của xã hội học. Nếu chức năng của xã hội học là bóc trần quyền lực thì ta hiểu rằng sự tồn tại của nó luôn bị đe dọa, trừ phi nó tự nhận là “trung lập” Duran &Weil, 2002, tr. 726. Bourdieu một mặt đòi hỏi xã hội học phải gắn với thực tiễn, mặt khác theo ông nhà xã hội học khác các “kỹ sư xã hội” ingénieurs sociaux. Nhà xã hội học phải tuân theo chức năng khoa học của xã hội học, phải theo tinh thần phê phán triệt để, không là công cụ của bất cứ kẻ nào. Trong khi những “kỹ sư xã hội” làm việc theo đơn đặt hàng của những người sử dụng họ. Duran và Weil cũng phân biệt các nhà xã hội học thuộc môi trường đại học sociologues universitaires và những nhà xã hội học thực tiễn sociologues praticiens. Những nhà xã hội học thực tiễn thường liên quan đến những người “đặt hàng”, do đó các hướng nghiên cứu của họ đã được đặt định và một phần kết quả nghiên cứu bị chi phối bởi khách hàng. Ngược lại, những nhà xã hội học thuộc môi trường đại học, với cơ chế tự chủ thật sự, có sự rộng rãi hơn trong việc chọn lựa đối tượng nghiên cứu và trong việc trình bày những kết quả của mình. Nhưng công trình của họ cũng có nguy cơ rơi vào những hiện tượng xã hội không “thời thượng” và không được biết đến Duran & Weil, 2002, tr. 726. Tuy nhiên, ngay cả các nhà xã hội học thực tiễn, với tư cách là nhà xã hội học chân chính, khi nghiên cứu theo “các đơn đặt hàng”, họ vẫn gặp nhiều khó khăn. Bởi lẽ, khi lý giải vấn đề nghiên cứu đặt ra, nhà xã hội học phải phân tích kết cấu các quan hệ xã hội giữa các tác nhân, các tầng lớp, phân tích các thỏa hiệp, xung đột, cái được, cái mất và như vậy là phải đụng đến quyền lực đang thống trị. Chính vì vậy mà người ta e dè xã hội học. Xã hội học là một “khoa học quấy rầy” Bourdieu. R. Sainselieu, một nhà xã hội học tổ chức nổi tiếng, khi làm tư vấn cho một cơ quan, đã nói “Các anh muốn duy trì bộ máy quan liêu. Mặc kệ các anh, điều đó không liên quan gì đến tôi. Các anh cứ duy trì, nhưng các anh sẽ chết vì nó. Cứ duy trì, nhưng đừng đòi hỏi tôi làm sao đồng thời có thể duy trì bộ máy quan liêu, vừa phát huy sáng kiến, sáng tạo” Duran & Weil, 2002, tr. 717. Sự phân loại của Bourdieu và Duran đều dựa trên vị trí xã hội, nhưng theo G. Rocher, cả hai loại nhà xã hội học này đều không thể tránh nguy cơ của ý hệ “Người ta có thể tìm thấy trong xã hội học dấu vết của mọi ý hệ và ta có thể nói nó đã phục NGUYỄN XUÂN NGHĨA – Xà HỘI HỌC VỀ TRI THỨC VÀ… 28 vụ cho tất cả ông chủ quyền lực tại chức, những người phản động, những người cải cách ôn hòa, những người tiến bộ” Rocher, 1970, tr. 290; Duran & Weil, 2002, tr. 726. Cũng trong ý hướng trên, Mendras phát biểu “...Phải trung thực báo trước với độc giả rằng, mọi phân tích khoa học tốt, cho dù nhà xã hội học có muốn hay không, đều đồng thời là một phân tích mang tính ý thức hệ” Mendras, 2001, tr. 250. 4. VÀI NÉT VỀ VIỆC SẢN XUẤT RA TRI THỨC VÀ VAI TRÒ CỦA TRI THỨC Xà HỘI HỌC Ở VIỆT NAM Mặc dù xã hội học là một ngành học còn non trẻ ở Việt Nam, nhưng vai trò của tri thức xã hội học thông qua các công trình nghiên cứu ở Việt Nam là rõ ràng và tích cực. Các nghiên cứu xã hội học đã đóng góp cho việc hoạch định các chính sách, chương trình, dự án, hoạt động của nhà nước, các tổ chức xã hội và cả tư nhân. Ý kiến của các nhà xã hội học ngày càng có giá trị các bài viết mang tính thời sự về những vấn đề xã hội hiện nay đều có xu hướng trích dẫn ý kiến của các nhà xã hội học. Nhìn chung, nhiều công trình mạnh dạn thực hiện chức năng phản biện, phục vụ lợi ích chung, nhưng cũng có những nghiên cứu, mang tính thuyết minh, nhằm lợi ích cục bộ của một thiểu số nào đó ví dụ các phê bình về tính không khách quan của các khảo sát gần đây về game online. Cũng có những công trình nói lên được tiếng nói của những nhóm thiểu số như phụ nữ, trẻ em. Thừa nhận vai trò tích cực của tri thức xã hội học ở Việt Nam hiện nay, nhưng đồng thời cũng phải thấy việc sản xuất ra các tri thức trên cũng có một số vấn đề - Một số nhà nghiên cứu phê bình các nghiên cứu xã hội học ở Việt Nam chưa chú trọng những vấn đề về nhận thức luận và phương pháp luận; ưu tiên mô hình thiết kế định lượng trong nghiên cứu đã dẫn đến “hội chứng định lượng” trong nghiên cứu xã hội học Mai Huy Bích, 2003; Nguyễn Xuân Nghĩa, 2006. Trong khi một số tác giả khác nhận định nghiên cứu trong khoa học xã hội Việt Nam nói chung thiên về định tính Nguyễn Văn Tuấn, 2011. - Nghiên cứu xã hội học ở Việt Nam chưa được nối liền với xã hội học thế giới. Rất ít bài về khoa học xã hội được đăng trên các tạp chí quốc tế. Tại hội thảo khoa học quốc tế “Khoa học xã hội thời hội nhập” diễn ra tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Đại học Quốc gia TPHCM ngày 15/2/2011, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Tuấn, Trường Đại học New South Wales, Úc - đã phát biểu “Một điều rất nghịch lý ở Việt Nam là các nghiên cứu về khoa học xã hội hiện diện trên các tạp chí trong nước rất nhiều nhưng lại xuất hiện rất ít trên các tạp chí khoa học quốc tế. Ví dụ, năm 2004 có tới bài báo khoa học được đăng trên tạp chí và kỷ yếu trong nước thì có đến bài về khoa học xã hội. Trong đó chỉ chưa tới 10 bài về khoa học xã hội được đăng trên tạp chí khoa học quốc tế. Thống kê giai đoạn 1996-2005 cho thấy, trong tổng số bài báo khoa học từ Việt Nam trên các tạp chí quốc tế thì chỉ có 69 bài chiếm khoảng 2% liên quan đến khoa học xã hội” Nguyễn Văn Tuấn, 2011. - Phần lớn các nghiên cứu ở Việt Nam thiếu sót vấn đề xem xét tổng quan tài liệu literature review vì chưa coi tri thức là sự NGUYỄN XUÂN NGHĨA – Xà HỘI HỌC VỀ TRI THỨC VÀ… 29tích lũy các hiểu biết Bùi Ngọc Hoàn4, 2012 và phần nào do tính không trung thực trong nghiên cứu khoa học. - Các đề tài nghiên cứu là những đề tài cá biệt của Việt Nam ít được đặt trong bối cảnh chung của kiến thức xã hội học. - Các nghiên cứu xã hội ở Việt Nam ít sử dụng các lý thuyết hay các hệ hình quy chiếu do đó không đi xa hơn việc mô tả các sự kiện thực tế, chưa đi đến việc giải thích bằng kiểm định các giả thuyết. Vì vậy, nhiều nghiên cứu chỉ mang tính thông tin chưa đi đến việc giải thích và thông hiểu Mai Huy Bích, 2003, tr. 71; Nguyễn Xuân Nghĩa, 2006, tr. 17; Bùi Ngọc Hoàn, 2012, tr. 77-78. - Về phương pháp, nhiều nghiên cứu thường không trình bày rõ các bước đi của nghiên cứu; mẫu nghiên cứu định lượng nhỏ; sử dụng các kỹ thuật thống kê mô tả đơn giản, chưa sử dụng các kỹ thuật đa biến Nguyễn Xuân Nghĩa, 2006, tr. 17; Nguyễn Văn Tuấn, 2011; Bùi Ngọc Hoàn, 2012, tr. 77-78. Tóm lại, những điều trình bày trên cho thấy tri thức xã hội học gắn liền với vị thế của những tác nhân sản xuất ra chúng, đây là những con người trong những thời điểm và không gian nhất định, nên bị hạn chế bởi những điều kiện cụ thể. Do đó, tri thức xã hội học không có tính tuyệt đối mà chỉ tiếp cận dần chân lý “Đặt chủ thể của khoa học trong lịch sử và xã hội không có nghĩa là tự buộc mình với chủ nghĩa tương đối. Chính việc làm nổi bật các điều kiện của tri thức phê phán về những giới hạn của tri thức là điều kiện cho tri thức thật” Bourdieu, 1984, tr. 72. Và chỉ có tri thức thật mới có thể có được tiếng nói thuyết phục trong đời sống xã hội ngày nay.  CHÚ THÍCH. 1 Cách dịch thuật ngữ Wertfreiheit» của Weber là Neutralité axiologique» qua tiếng Pháp của J. Freund, mà tiếng Việt lại dịch là “tính trung lập về mặt giá trị” bị phê phán là không chính xác. Sau này Isabelle Kalinowski dịch là “sự không áp đặt các giá trị” la non-imposition des valeurs. Có nghĩa là, không phải nhà xã hội học trung lập về mặt giá trị ví dụ giữa giá trị dân chủ và độc tài, nhà xã hội học có thể có chọn lựa về mặt giá trị, nhưng không áp đặt giá trị của mình lên người khác trong môi trường học thuật. Xin xem Corcuff, 2011. 2 Durkheim và một số nhà xã hội học thường sử dụng từ “nhà bác học” le savant. Ở đây ta hiểu là người trí thức nói chung, trong đó có nhà xã hội học. 3 Weber phân biệt rất rõ ứng xử của nhà trí thức trong môi trường đại học và ứng xử ở đời thường. Ở đời thường, họ có thể tham gia chính trị, như Weber là thành viên sáng lập Đảng Dân chủ Đức, ông cũng tham gia viết bản thảo Hiến pháp của Weimar 1919. 4 Giảng viên đại học Tennessee, Knoxville, Mỹ. Tác giả có một số phê bình chưa hoàn toàn chính xác về xã hội học Việt Nam, bởi lẽ trong tài liệu tham khảo của tác giả không thấy có tên Tạp chí Xã hội học, Tạp chí Khoa học xã hội và các luận văn, luận án xã hội học ở Việt Nam. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Aron, R. 1967. Les Étapes de la Pensée Sociologique. Paris Gallimard. 2. Boudon, R. et al., 2003. Dictionnaire de Sociologie, Paris Larousse. 3. Bourdieu P., Chamboredon J-C, Passeron J-C. 1968. Le Métier de Sociologue. Paris NGUYỄN XUÂN NGHĨA – Xà HỘI HỌC VỀ TRI THỨC VÀ… 30 Mouton-Bordas. 4. Bourdieu P. [1980], 1984. Questions de Sociologie, Minuit. 5. Bourdieu P. .2002. Le bal des célibataires, Paris Éd. du Seuil, 6. Bouveresse, J. 2006. Pierre Bourdieu le Savant et le Politique. Trong Muller, H-P. Sintomer Y. Pierre Bourdieu, Théorie et Pratiques. Perspectives Franco-Allemandes. Paris La Découverte. 7. Bùi Ngọc Hoàn. 2012. Nghiên cứu Xã hội học. Thời đại mới. Số 25. Tháng 7/2012. 8. Corcuff, P. 2011. Le savant et le politique. Sociologies [En ligne], Expériences de recherche, Régimes d'explication en sociologie, mis en ligne le 06 juillet 2011. Truy cập ngày 22/12/2012. 9. Duran J-P, Weil R. 2002. Sociologie Contemporaine, Paris Vigot. 10. Durkheim, É. [1893], 1986. De la Division du Travail Social. Paris PUF. 11. Durkheim, É. [1912], 1991. Les Formes Élémentaires de la Vie Religieuse. Paris Livre de Poche. 12. Durkheim, É. 2002. L’Élite intellectuelle et la démocratie. Trong L’Individualisme et les Intellectuels. Paris Mille et une Nuits. 13. Friedmann, G., Febvre L. Société et Connaissance Sociologique. Annales, Économies, Sociétés, Civilisations, 15e annee, 1960. 14. Giddens, A. 1997, 2009. Sociology, 3rd & 5th. Cambridge Polity Press. 15. Mai Huy Bích. 2003. Hai mươi năm Viện Xã hội học Một cảm nhận riêng. Tạp chí Xã hội học. Số 484. 16. Marshall, G. 1998. Dictionary of Sociology. Oxford University Press. Bản dịch tiếng Việt của các tác giả Bùi Thế Cường, Đặng Thị Việt Phương, Trịnh Huy Hóa. 2010. Từ điển Xã hội học Oxford. Hà Nội Nxb. Đại học Quốc gia. 17. McArthy, E. D. 2000. Sociology of Knowledge. Trong Borgatta Montgomerry R. Encyclopedia of Sociology, USAMcMillan. 18. Mendras H. 2001. Éléments de sociologie. Paris Armand Colin. 19. Nguyễn Văn Tuấn. Khám phá trong nghiên cứu khoa học xã hội qua các phương pháp định lượng. Trong Hội thảo Khoa học xã hội Việt Nam thời hội nhập. TPHCM 15/12/2011. Xin xem 20. Nguyễn Xuân Nghĩa. Vài suy nghĩ về khuynh hướng và các loại hình trong nghiên cứu xã hội. Tạp chí Khoa học Xã hội. Số 10/2006. 21. Nguyễn Xuân Nghĩa. Xã hội học đòi hỏi và thực tiễn - Vài thực hành tự phản tư. Tạp chí Khoa học Xã hội. Số 02126- 2009. 22. Weber, M. 1963. Le Savant et le Politique. Được giới thiệu bởi R. Aron. Bản dịch của J. Freund. Paris Union générale d’édition. 23. Weber, M. 1965. Essais sur la Théorie de la Science. J. Freund dịch và giới thiệu. Paris Plon. 24. Weber, M. 2000. Remarque préliminaries. Trong L’Éthique Protestante et l’Esprit du Capitalisme. Paris Champs/ Flammarion. ResearchGate has not been able to resolve any citations for this BourdieuBourdieu P..2002. Le bal des célibataires, Paris Éd. du Seuil,Nghiên cứu Xã hội học. Thời đại mớiBùi Ngọc HoànBùi Ngọc Hoàn. 2012. Nghiên cứu Xã hội học. Thời đại mới. Số 25. Tháng 7/ de recherche, Régimes d'explication en sociologieP CorcuffCorcuff, P. 2011. Le savant et le politique. Sociologies [En ligne], Expériences de recherche, Régimes d'explication en sociologie, mis en ligne le 06 juillet 2011. Truy cập ngày 22/12/2012.

xã hội tri thức