VĂN TẾ NGHĨA SĨ CẦN GIUỘC by Hoàng Thư 1. Tác giả 1.1. Nguyễn Đình Chiểu ( 1822-1888) 1.2. Quê ở làng Tân Thới, huyện Bình Dương 2. Tác phẩm 2.1. Thể loại: Văn tế 2.2. Hoàn cảnh sáng tác: Viết theo yêu cầu của tuần phủ Gia Định Đỗ Quang 1861 2.3. Bố cục: 4 phần. 2.3.1. 👉 Lời giải Phân tích Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu để thấy đây là bức tượng đài bi tráng về người nông dân nghĩa sĩ đánh Pháp từ những ngày đầu chúng xâm lược đất nước ta lớp 11; 👉 Lời giải Đọc hiểu Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc là giờ đồng hồ khóc buồn cho một thời kỳ lịch sử đau thương tuy vậy vĩ đại. - khái quát chung về hình tượng fan nông dân nghĩa sĩ trong tác phẩm: bài bác văn tế vẫn dựng lên bức tượng phật đài bạt tử về những người nông dân nghĩa sĩ đề nghị Giuộc, những người đã gan góc chiến đấu, hi sinh do Tổ quốc. II. Thân bài 1. Cảm nhận vẻ đẹp hình tượng người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc trong tác phẩm "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" của Nguyễn Đình Chiểu, một em học sinh viết như sau: "Bằng ngòi bút của mình, Nguyễn Đình Chiểu đã cho thấy tình cảnh của người nông dân thật vất vả Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là khúc ca những người anh hùng thất thế, nhưng vẫn hiên ngang "sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc Đọc - hiểu văn bản: "Người trong bao" (Sê - khốp) 08/10/2020; Post Comment Hủy. Bình luận. Tên * Email * Vay Tiền Nhanh. I. Tìm hiểu chung1. Tác giả- Sinh ra ở quê mẹ Gia Con quan, được dạy chữ từ nhỏ. 12 tuổi ông theo cha Nguyễn Đình Huy, chạy loạn về quê nội Huế. Tại đây ông tiếp tục học hành, đỗ tú tài ở Gia Định 1843. Năm 1849, ông ra Huế dự thi Hội, đang chờ thi thì mẹ mất trong Nam, ông bỏ thi về chịu tang, khóc mẹ mù cả hai Học giỏi, đỗ tú tài năm 26 Bị mù, từ đó mở trường dạt học và làm thuốc tại quê 1858, Pháp đánh vào Gia Định, Nguyễn Đình Chiểu chạy về Cần Ba Tri Phát mua chuộc ông không được “Đất vua đã mất, riêng tôi nào có đáng gì?”.- Ông mất năm 1888 tại Ba Tri, Bến Cuộc đời của Nguyễn Đình Chiểu là tấm gương sống đầy nghị lực, sống bằng khí phách luôn vượt lên bất hạnh và đau khổ để làm những việc có ích cho dân, cho nước, sống có đạo đức cao cả, yêu thương nhân dân, chống lại kẻ xâm lược.* Sự nghiệp sáng tác- Trước khi Pháp xâm lược Lục Vân Tiên Chiến đấu bảo vệ đạo đức, công lý.- Sau khi Pháp xâm lược thơ văn yêu nước chống Pháp.* Quan niệm sáng tác- Văn chương là vũ khí chiến Các tác phẩm văn chương của ông hầu hết đều viết bằng chữ Nôm+ Dương Từ Hà Mậu gồm 3456 câu lục bát.+ Chạy tây 1859.+ Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc 1861.+ 12 bài thơ điếu Trương Định và tế Trương Định 1864.+ 12 bài thơ điếu Phan Tông 1868.+ Văn tế nghĩa sĩ trận vọng lục tỉnh 1874, Ngư tiều y thuật vấn Tác phẩma. Hoàn cảnh sáng tác- Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được Nguyễn Đình Chiểu viết theo yêu cầu của tuần phủ Gia Định, để tưởng nhớ công ơn của những người nông dân đã anh dũng đứng lên chống giặc. Năm 1858, giặc Pháp đánh vào Đà Nẵng, nhân dân Nam Bộ đứng lên chống Năm 1861, vào đêm 14 - 12, nghĩa quân tấn công đồn giặc ở Cần Giuộc trên đất Gia Định, gây tổn thất cho giặc, nhưng cuối cùng lại thất Thể loại- Văn tế ngày nay gọi là điếu văn là thể văn thường dùng để đọc khi tế, cúng người chết, nó có hình thức tế - Bài văn tế thường có các phần+ Lung khởi cảm tưởng khái quát về người chết.+ Thích thực hồi tưởng công đức của người chết.+ Ai vãn than tiếc người chết.+ Kết nêu lên ý nghĩa và lời mời của người đứng tế đối với linh hồn người chết.c. Bố cục - Lung khởi Từ đầu đến “...tiếng vang như mõ” Hình ảnh người nông dân nghĩa sĩ đánh Thích thực Tiếp theo đến”... tàu đồng súng nổ” Hồi tưởng cuộc đời và công đức của người nghĩa Ai vãn Tiếp theo đến “...cơn bóng xế dật dờ trước ngõ” Tiếng khóc cao cả thiêng Kết Còn lại Tình cảm xót thương của người đứng tế đối với linh hồn người chết.13493581349412II. Đọc - hiểu văn bản 1. Lung khởi Hình ảnh người nông dân nghĩa sĩ đánh Bài văn tế được mở đầu bằng tiếng than quen nhiên trong tiếng than này Làm hiện lên cả một tình thế hết sức căng thẳng của thời đại Đất nước đang có giặc ngoại xâm, toàn dân tộc đứng lên chiến đấu. Câu mở đầu ngắn gọn, hàm súc đã dựng lên khung cảnh bão táp của thời đại, Khái quát đầy đủ hai mặt của bão táp lớn lao. Một bên là sự xâm lược của kẻ thù với vũ khí tối tân hiện đại, còn một bên là lòng dân là ý thức chống xâm lăng của dân Với một tấm lòng gắn bó máu thịt với nhân dân, đất nước, nay được chứng kiến những tấm gương anh hùng ngay trên quê hương. Tác giả đã bày tỏ lòng ngưỡng mộ chân thành và khẳng định những người nhân dân ấy tuy đã hy sinh nhưng danh tiếng vẫn còn mãi mãi.=> Mở đầu bài văn tế, tác giả đã tô đậm hình ảnh lòng dân người sáng giữa đất trời bằng những nét uy nghi, lộng lẫy. Nó giống như một bệ đỡ hoành tráng cho bức tượng đài sẽ được miêu tả ở phần Thích thực hồi tưởng cuộc đời người và công đức của nghĩa sĩ- Trước khi giặc đến+ Lai lịch là những người nông dân hiền lành, đau khổ.+ Cuộc sống cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó, việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy vốn quen làm...+ Sử dụng từ láy cui cút tái hiện cuộc sống chịu khó, lam lũ, bao lo toan, vất vả nhưng vẫn nghèo túng của những người nông dân. Đó là cuộc sống gắn bó với ruộng đồng, con trâu, cái cày.+ Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ,... cho thấy sự xa lạ, không hiểu biết với công việc nhà binh, chiến Sự chuyển biến trong tư tưởng của người nông dân+ Người nông dân sống trong xã hội phong kiến nên buộc phải trông chờ lệnh triều đình khi giặc tới. Tuy nhiên, thực tế lịch sử cho thấy sự ươn hèn vô trách nhiệm của nhà nước phong kiến. Trước tình hình đó, người nông dân vẫn bộc lộ lòng căm thù giặc. Qua lối so sánh thật thà, bộ trực đầy chất nông dân.+ Không thể thụ động, trông chờ vào triều đình, những người nông dân đã có bước chuyển biến trong tư tưởng. Họ tự giác đứng lên giết giặc cứu nước với những phẩm chất cao đẹp Tự nguyện bước vào cuộc chiến đấu với ý thức trách nhiệm trước vận mệnh của Tổ Tác giả tiếp tục nhấn mạnh hình ảnh những người nông dân khi vào trận những người lính vốn là những người nông dân giờ trở thành nghĩa sĩ, họ chưa từng là chiến binh, chẳng có vũ khí, chưa hề được rèn tập võ nghệ, binh thư, binh pháp và khi vào trận vẫn mang dáng dấp của người nông dân trên đồng ruộng, với những nông cụ thô sơ sẵn có mà trước đó còn dùng trong sinh hoạt gia đình, trong sản Bút pháp hiện thực với những chất liệu sống động của chiến trường đã tạo nên bức tranh chiến trận hào hùng của đội quân áo vải. Hệ thống động từ mạnh nối tiếp nhau, miêu tả những động tác quyết liệt đốt, chém, đạp, lướt, đâm, xô, xông,... Trước mắt người đọc như loang loáng những đường gươm, ào ạt những bóng người cùng với âm thanh chiến trận, vang động đất Những nghĩa sĩ Cần Giuộc xông vào trận chiến như xô cửa đạp vào, khiến cho kẻ thù thất điên bát đảo. Những con người quả cảm ấy đã nêu lên một tấm gương sáng ngời vào trang sử chống thực dân Pháp đầu tiên của dân tộc. Những chiến công đẹp đẽ bằng ý thức tự giác và bằng máu xương của họ, tác giả đã bất tử hoá những người đã khuất, tạo dựng họ thành bức tượng đài cao đẹp, bằng ngôn từ, họ sẽ sống mãi trong văn chương của dân tộc.13498593. Ai vãn Tiếng khóc cao cả thiêng liêng- Bày tỏ lòng tiếc thương, sự cảm phục của tác giả và nhân dân đối với người nghĩa sĩ -> bộc lộ trực tiếp tình cảm, cảm xúc của người viết- Tiếng khóc được cổng hưởng từ nhiều nguồn cảm xúc khác nhau+ Nỗi tiếc, ân hận của người phải hi sinh khi sự nghiệp còn dang dở, chí nguyện chưa thành.+ Nỗi xót xa của những gia đình mất người thân, tổn thân không thể bù đắp đối với những người mẹ già, vợ trẻ.+ Nỗi căm giận kẻ thù gây nên nghịch cảnh éo le hòa chung tiếng khóc uất ức, nghẹn ngào trước tình cảnh đau thương của đất nước.+ Niềm cảm phục và tự hào vì những người nông dân bình thường đã dám đứng lên bảo vệ từng tấc đất, ngọn rau, lấy cái chết làm rạng ngời chân lí cao đẹp chết vinh còn hơn sống nhục.+ Biểu dương công trạng của người nghĩa sĩ đời đời được nhân dân ngưỡng mộ và Tổ quốc ghi công.=> Tiếng khóc không chỉ thể hiện tình cảm riêng tư mà cao hơn, tác giả đã thay mặt nhân dân cả nước khóc thương và biểu dương công trạng của người liệt sĩ. Tiếng khóc không chỉ gợi nỗi đau thương mà còn khích lệ tinh thần chiến đấu của người còn Ca ngợi linh hồn bất diệt của nghĩa sĩ- Hai câu cuối thể hiện niềm thành kính thiêng liêng của tác giả trước hình tượng người nghĩa sĩ nông dân nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, giọt nước mắt chân thành của Nguyễn Đình Bài văn tế kết thúc trong giọng điệu trầm buồn. Ngữ điệu câu không trọn vẹn, giây phút mặc niệm, cái nấc nghẹn ngào đến đau đớn của Đồ Chiểu, của bao người gửi đến những nghĩa sĩ đã ngã xuống vì đất nước. Tất cả đều ngợi ca công đức của họ.1349766III. Tổng kết1. Nghệ thuật- Ngôn từ giản dị nhưng có khả năng gợi cảm lớn, có giá trị thẩm mĩ Giọng văn thay đổi linh Sử dụng thành công nhiều thủ pháp nghệ thuật phép đối, phép liệt kê,...2. Nội dungBài văn tế như bức tượng đài bằng ngôn từ, tạc khác nên hình tượng những người nghĩa sĩ nông dân hào hùng mà bi tráng, tượng trưng cho tinh thần yêu nước, căm thù giặc ngoại xâm của cha ông ta. Bức tượng đài ấy là dấu mốc thể hiện cả một bi kịch lớn của dân tộc - bi kịch mất nước, và báo hiệu một thời kì lịch sử đen tôi của dân tộc ta - thời kì một trăm năm Pháp thuộc. Nhưng thật hào hùng, trong cái bi kịch lớn ấy, tinh thần bất khuất của nhân dân Nam Bộ nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung vẫn ngời sáng bởi cái lí tưởng cao đẹp của nghĩa sĩ Cần Giuộc - những người sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn, vì dân tộc.1349685 Để học tốt Ngữ văn lớp 11Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Ngữ văn xin giới thiệu tới bạn đọc tài liệu lớp 11 Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, tài liệu đã được tổng hợp đầy đủ nội dung sẽ giúp các bạn học sinh nắm chắc bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Ngữ văn 11 và để học tập tốt Ngữ văn 11. Qua tài liệu các bạn học sinh Soạn bài lớp 11 một cách dễ dàng hơn. Mời các bạn học sinh và thầy cô cùng tham tế nghĩa sĩ Cần GiuộcHỡi ơi! Súng giặc đất rền; lòng dân trời năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao; Một trận nghĩa đánh Tây, thân tuy mất tiếng vang như linh xưa Cui cút làm ăn; Riêng lo nghèo quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn mong mưa; Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọt như nhà nông ghét thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu; Hai vầng nhật nguyệt chói loà, đâu dung lũ treo dê bán đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; Chẳng thèm chốn ngược, chốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ thương thay Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ, theo dòng ở lính diễn binh; Chẳng qua là dân ấp, dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn; Chín chục trận binh thư, đâu chờ bày cật có một manh áo vải, nào đợi đeo bao tấu bầu ngòi; Trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu nón mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nhọc quan quản trống kỳ, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng đâm ngang, người chém dọc, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc tàu đồng súng lăm lòng nghĩa lâu dùng; Đâu biết xác phàm vội chắc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây; Trăm năm âm phủ ấy chữ quy, nào đợi gươm hùm treo sông Cầm Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng; Nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng luỵ phải án cướp, án gian đày tới, mà vi binh đánh giặc cho cam tâm; Vốn không giữ thành, giữ luỹ bỏ đi, mà hiệu lực theo quân cho đáng nghĩ rằng Tấc đấc ngọn rau ơn chúa, tài bồi cho nước nhà ta; Bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương; Vì ai xui hào luỹ tan tành, xiêu mưa ngã làm chi theo quân tà đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn; Sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; Hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất thôi thôi! Chùa Tân Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm; Đồn Lang Sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đớn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; Não nùng thay! Vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước Một trận khói tan; Nghìn năm tiết tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé, ai làm cho bốn phía mây đen; Ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu đặng một phường con mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; Thác mà ưng đền miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia; Sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân; Cây hương nghĩa sĩ thắp nên thơm, cám bởi một câu vương ơi! Có linh xin tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu là tiếng khóc bi tráng cho một thời kì lịch sử đau thương nhưng vĩ đại của dân tộc, là bức tượng đài bất tử về những người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc đã dũng cảm chiến đấu hi sinh vì Tố quốc. Bài văn cũng là một thành tựu xuất sắc về nghê thuật xây dựng hình tượng nhân vật, kết hợp nhuần nhuyễn chất trữ tình và tính hiện thực; ngôn ngữ bình dị, trong sáng, sinh động. Cần Giuộc tức quận Cần Giuộc, nay thuộc tỉnh Long thơ này được sử dụng trong các chương trình SGK Văn học 11 giai đoạn 1990 - 2006, Ngữ văn 11 từ Đôi nét về tác giả Nguyễn Đình ChiểuXem thêm Tác giả Nguyễn Đình ChiểuII. Đôi nét về tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc1. Hoàn cảnh sáng tác- Tác phẩm được viết theo yêu cầu của Đỗ Quang - tuần phủ Gia Định, để tế nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận tập kích đồn quân Pháp ở Cần Giuộc đêm ngày 16 tháng 12 năm Ngay khi ra đời bài văn tế đã được truyền tụng khắp cả nước, làm xúc động lòng Bố cục- Lung khởi từ đầu đến tiếng vang như mõ cảm tưởng khái quát về cuộc đời những người sĩ Cần Thích thực từ Nhớ linh xưa... đến tàu đồng súng nổ hồi tưởng cuộc đời và công đức của người nghĩa Ai vãn từ Ôi! Những lăm lòng nghĩa lâu dùng đến cơn bóng xế dật dờ trước ngõ lời thương tiếc người chết của tác giả và người thân của các nghĩa Kết còn lại tình cảm xót thương của người đứng tế đối với linh hồn người Giá trị nội dung- Tác phẩm là tiếng khóc bi tráng cho một thời kì lịch sử đau thương nhưng vĩ đại của dân tộc, là bức tượng đài bất tử về người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc đã dũng cảm chiến đấu hi sinh vì Tổ Giá trị nghệ thuật- Bài văn là thành tựu xuất sắc về nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật, kết hợp nhuần nhuyễn chất trữ tình và chất hiện thực, ngôn ngữ bình dị, trong sáng, sinh Dàn ý phân tích Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc1. Lung khởi- Mở đầu là lời than đầy ai oán, xót thương Hỡi Tiếp theo đó là khí thế tinh thần sôi sục của thời đại khi đất nước có giặc ngoại xâm Súng giặc đất rền, lòng dân tỏ rõ,...- Nghệ thuật so sánh có tính chất đối lập giữa nổi dậy và không nổi dậy khởi nghĩa đã khẳng định sâu sắc ý nghĩa sự hi sinh để lại tiếng thơm cho đời.⇒ Khái quát được bối cảnh lịch sử với vấn đề trọng tâm của thời đại là cuộc đụng độ lịch sử của thế lực xâm lược với ý chí kiên cường bất khuất bảo vệ đất nước của dân tộc đồng thời nêu rõ chủ đề tư tưởng ca ngợi, biểu dương sự hi sinh vì dân tộc của những người nghĩa sĩ Cần Thích thực- Xuất thân của người nghĩa sĩ+ là những người nông dân quanh năm côi cút làm ăn, hiền lành chất phác, ngòi bút tác giả vừa chân thực vừa sống động làm nổi lên cuộc sống bình dị khát vọng của người dân cày nghèo.+ nhấn mạnh cái gốc nông dân của người nghĩa sĩ là một bước tiến một cái nhìn tiến bộ của ông Đồ Chiểu trong nền văn học bấy giờ văn học trung đại thường ngợi ca những anh hùng là quan tử, nho sĩ mà bỏ qua người nông dân.+ Nguyễn Đình Chiểu chính là người đầu tiên mở đường cho hình tượng người nông dân nghĩa sĩ bước vào văn Phẩm chất người nông dân nghĩa sĩ+ họ hiền lành chất phác, chăm chỉ cần cù, lời ăn tiếng nói mang đậm chất Nam Bộ.+ khi đất nước bị xâm lược họ mang trong mình lòng căm thù giặc sâu sắc thề không đội trời chung với giặc.+ họ có ý thức tự tôn dân tộc, lòng mến nghĩa, tinh thần tự nguyện đánh giặc.⇒ Họ là hiện thân cho hai nét tính cách của người nông dân Việt Nam giản dị- anh Ai vãn- Khóc cho những người nghĩa sĩ Cần Khóc cho người thân của Khóc cho non sông đất nước đang trong cảnh ngoại xâm dày xéo.⇒ Tiếng khóc của Nguyễn Đình Chiểu đau thương mà không hè bi lụy vì nó tràn đầy niềm tự hào kính phục và ngợi ca những người nông dân đã chiến đấu hi sinh cho dân Thay mặt nhân dân tác giả ca ngợi tấm gương các anh hùng nghĩa sĩ ấy. Qua đó tác giả khẳng định quan niệm Thà chết vinh còn hơn sống Lúc này ta thấy tiếng khóc còn hướng về cuộc sống hiện tại về những kiếp người đang lầm than trong bom đạn chiến Kết- Khẳng định sự hi sinh cao cả của anh hùng nghĩa Câu cuối trở lại hiện thực khóc thương, ngợi ca tấm lòng người nghĩa Nghệ thuật- Cảm xúc chủ đạo là bi Nghệ thuật đối được sử dụng thành Ngòi bút tác giả hoàn toàn xứng đáng với hành động cao cả của người nghĩa sĩ với những tư tưởng cực kì lớn lao mà tác giả đã phát hiện trong hành động tự nguyện giết giặc cứu nước của liệu liên quan tới tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần GiuộcSoạn bài lớp 11 Văn tế nghĩa sĩ Cần GiuộcTóm tắt bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình ChiểuVăn mẫu lớp 11 Phân tích giá trị nghệ thuật đặc sắc của bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Nguyễn Đinh ChiểuTrắc nghiệm Ngữ văn 11 bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc lý thuyết trắc nghiệm hỏi đáp bài tập sgk Câu hỏi Viết đoạn văn làm sáng tỏ luận điểm " bài thơ Quê hượng của Tế Hanh là một bức tranh tươi sáng về lòng yêu biển". thơ “Quê hương” của Tế Hanh đã tái hiện vẻ đẹp tươi sáng của bức tranh làng quê vùng biển. Em hãy viết bài văn thuyết minh làm sáng tỏ nội dung trên. Xem chi tiết nhận xét về bài thơ"Quê hương " của Tế Hanh, có ý kiến cho rằng"Sức hấp dẫn của những vần thơ viết về quê hương của Tế Hanh không chỉ dừng lại ở việc miêu tả cảnh vật, vùng biển hùng vĩ mà hồn thơ tế hanh còn dành tình yêu đặc biệt với người dân vạn chài nơi đây". em hay làm sáng tỏ ý kiến trên Xem chi tiết “Khổ thơ thứ hai trong bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh đã tái hiện một cách sinh động cảnh dân làng chài ra khơi đánh cá”. Hãy viết một đoạn văn khoảng 12 – 15 câu theo phép lập luận diễn dịch làm rõ nhận định trên. Trong đoạn có sử dụng hợp lí một câu ghép và một câu cảm thán gạch dưới, chỉ rõ câu ghép và câu cảm thán.mk cần gấp ạ! Mng mn giúp đỡ ạ ! Xem chi tiết Hai câu đầu bài thơ Quê hương của Tế Hanh có gì đặc sắc? Viết đoạn văn ngắn trình bày cách giới thiệu về làng mình của Tế Hanh Xem chi tiết Từ bài thơ Quê hương của Tế Hanh viết đoạn văn khoảng 150 từ suy nghĩ về môi trường biểngiúp tôi với Xem chi tiết ngoc 4 tháng 2 2021 lúc 1011 Từ bài thơ "Quê hương" của Tế Hanh kết hợp với những hiểu biết xã hội, em hãy viết 1 đoạn văn khoảng 2/3 trang giấy trình bày về cách thể hiện tình yêu quê hương, đất nước của thế hệ trẻ ngày MÌNH VỚI, MÌNH CẦN GẤP Ạ!!!!!!! Xem chi tiết Khích lệ nhiều mặt để tập trung vào một hướng, đó là cách triển khai lập luận của bài Hịch tướng sĩ. Hãy làm sáng tỏ điều này bằng một đoạn văn tổng phân hợp về bài hịch tuongs sĩ Xem chi tiết viết một đoạn văn diễn dịch từ 8 đến 10 câu có sử dụng 1 câu ghép chính phụ 1 câu cảm thán làm rõ cảnh đoàn thuyền ra khơi đi đánh cá trong bài thơ quê hương của tế hanhgạch chân chú thích Xem chi tiết Trong bài thơ Quê hương, Đỗ Trung Quân viết" ...Quê hương mỗi người chỉ mộtNhư là chỉ một mẹ thôi..."Từ ý thơ trên, em hãy viết một bài văn nghị luận khoảng 01 trang bày tỏ suy nghĩ của mình về quê hương. Xem chi tiết Đọc hiểu văn bản Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc Nguyễn Đình Chiểu. I. Tìm hiểu chung. 1. Tác giả Nguyễn Đình Chiểu. a. Cuộc đời. – Nguyễn Đình Chiểu 1822-1888 tự là Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai. Quê quán sinh tại quê mẹ ở tỉnh Gia Định xưa trong một gia đình nhà nho. – Sinh ra ở quê mẹ làng Tân Thới, phủ Tân Bình, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định nay thuộc thành phố HCM. – Hoàn cảnh xuất thân trong một gia đình nhà nho, Cha làm thư lại trong dinh tổng trấn Lê Văn Duyệt. – Năm 1833 được cha đưa ra Huế để ăn học. Năm 1843 vào Gia Định thi đỗ tú tài. Năm 1846 lại ra huế để chuẩn bị thi tiếp. – Năm 1849 sắp thi thì được tin mẹ mất, ông bỏ thi về Nam chịu tang mẹ. Dọc đường vất vả lại thương mẹ khóc nhiều, ông bị đau nặng và mù cả hai mắt; – Ông học nghề thuốc sau đó về quê vừa dạy học vừa bốc thuốc vừa làm thơ, sống giữa tình thương và lòng hâm mộ của bà con cô bác – Khi thực dân Pháp xâm lược, Nguyễn Đình Chiểu vẫn cùng các lãnh tụ nghĩa quân bàn mưu định kế giết giặc. Thực dân Pháp tìm mọi cách mua chuộc Ông nhưng không được. – Năm1888 Ông từ trần, cánh đồng Ba Tri rợp khăn tang khóc thương Đồ Chiểu. b. Sự nghiệp thơ văn. * Những tác phẩm chính. – Sự nghiệp văn chương của ông, có thể chia thành hai thời kỳ sáng tác + Giai đoạn đầu những năm 50 của thế kỷ 19 Trong giai đoạn này, ông viết “Lục Vân Tiên” và “Dương Từ-Hà Mậu”. Có thể xem đây là thời kỳ khẳng định tư tưởng nhân nghĩa, tư tưởng yêu nước yêu dân của ông. + Giai đoạn sau bắt đầu từ ngày quân Pháp đến chiếm lấy Gia Định 1859 cho đến khi ông qua đời 1888 ngòi bút của ông ở giai đoạn này gắn bó mật thiết với cuộc sống của người dân mất nước. Trong nhiều tác phẩm như “Chạy giặc”, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”, “Lục tỉnh sĩ dân trận vong”... ông đã lên án mạnh mẽ quân Pháp xâm lược, phê phán triều đình nhu nhược, đồng thời ca ngợi tinh thần nghĩa khí và những tấm gương chiến đấu anh dũng của nhân dân. Đây là giai đoạn phát triển cao và rực rỡ của sự nghiệp văn chương Nguyễn Đình Chiểu. – Dù ở giai đoạn nào, trong các tác phẩm của ông nổi bật lên ba đặc điểm về nội dung và hình thức, đó là + Ông thường dùng chữ Nôm, và bằng ngôn ngữ nghệ thuật bình dị, giàu sức gợi cảm khiến cho tác phẩm của ông có sức thu hút mạnh mẽ người đọc, nhất là đối với nhân dân miền Nam. + Ông là nhà thơ đầu tiên xây dựng thành công hình ảnh những người nông dân trong văn học Việt, đắp tô tượng đài vĩnh cửu về người anh hùng Nam Bộ tiên phong trong công cuộc chống thực dân Pháp xâm lược. + Ông đề cao tư tưởng Nho gia, xem ra có vẻ bảo thủ. Song điều đáng chú ý là các tư tưởng ấy mang nội dung đạo nghĩa nhân dân, gắn chặt với ý thức trách nhiệm đối với vận mệnh của đất nước, do đó có một ý nghĩa xã hội to lớn, khởi đầu cho một thời đại văn chương sử thi mới sau này. – So với các trước tác của các nhà văn cùng thời, Nguyễn Đình Chiểu đã có một thái độ tích cực hơn, vì dân vì nước hơn. Tuy không đứng vào hàng ngũ cầm khí giới, nhưng ông rất có cảm tình với họ, chia sẻ với họ cái hờn mất nước, lòng căm ghét quân địch và bọn hợp tác… – Những tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu được lưu truyền rộng rãi trong nhân dân và còn lại đến ngày nay. Có thể chia chia thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu thành 2 bộ phận chủ yếu Các truyện thơ Nôm + Lục Vân Tiên. + Dương Từ – Hà Mậu + Ngư tiều y thuật vấn đáp. – Thơ văn yêu nước chống Pháp gồm các bài thơ lẻ, văn tế, thơ điếu, những bài thơ, bài hát, đối thoại của các nhân vật trong các tác phẩm “Dương Từ – Hà Mậu” và “Ngư tiều y thuật vấn đáp” như + Chạy giặc + Văn tế nghĩa dân chết trận Cần Giuộc. + Từ biệt cố nhân. + Ngựa tiêu sương + Con dê. + Trời bão. +Nước lụt. + Cáo thị + Văn điếu Trương Định. + Thơ điếu Trương Định + Thơ điếu Phan Tòng + Văn tế lục tỉnh sĩ dân trận vong. + Hịch đánh chuột. + Thơ cho em. – Các bài thơ, bài hát và trích đoạn trong các tác phẩm Dương Từ – Hà Mậu và Ngư tiều y thuật vấn đáp. Ngoài ra còn có 5 bài thơ lẻ, nhiều người cho là của Nguyễn Đình Chiểu nhưng vẫn còn trong dạng tồn nghi chưa xác định. * Nội dung thơ văn. – Lí tưởng đạo đức, nhân nghĩa + Quan niệm nghệ thuật Học theo ngòi bút chí công / Trong thơ, cho ngụ tấm lòng Xuân Thu; Chở bao nhiêu đạo, thuyền không khẳm / Đâm mấy thằng gian, bút chẳng tà! + Thơ văn đề cao đạo đức, lí tưởng nhân nghĩa Những bài học về đạo làm người mang tinh thần nhân nghĩa của đạo nho nhưng lại rất đậm đà tính nhân dân và truyền thống dân tộc. – Thơ văn yêu nước chống Pháp + Ghi lại chân thực một giai đoạn lịch sử khổ nhục, đa thương của đất nước. + Khích lệ lòng yêu nước, căm thù giặc và ý chí cứu nước của nhân dân ta. + Nhiệt liệt biểu dương, ca ngợi những anh hùng đã chiến đấu hi sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc. * Nghệ thuật thơ văn. – Văn chương trữ tình đạo đức vẻ đẹp thơ văn tiềm ẩn trong tầng sâu cảm xúc, suy ngẫm. – Bút pháp trữ tình xuất phát từ cõi tâm trong sáng, nhiệt thành… – Đậm đà sắc thái Nam bộ Lời ăn tiếng nói mộc mạc….. – Lối thơ thiên về kể mang màu sắc diễn xướng rất phổ biến trong văn học dân gian Nam Bộ. c. Đánh giá Nguyễn Đình Chiểu là một nhà nho tiết tháo, sống theo đạo nghĩa, tuy mang tật mù lòa và gặp lúc biến loạn nhưng vẫn giữ được phẩm cách thanh cao. Ông không chỉ là người con có hiếu, người thầy thuốc mẫu mực mà còn là một nhà thơ yêu nước, đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị. Ông là nhà thơ có quan niệm văn chương nhất quán. Ông chủ trương dùng văn chương biểu hiện đạo lý và chiến đấu cho sự nghiệp chính nghĩa. Nói khác hơn, ông làm thơ là để “chở đạo, sửa đời và dạy người”. Vì vậy, mỗi vần thơ của ông đều ngụ ý khen chê công bằng, rạch ròi, và đều bộc lộ một tấm lòng thương dân yêu nước của ông. – Nguyễn Đình Chiểu sống mãi bởi nhân cách cao đẹp. Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu vang mãi trong lòng dân tộc, là ngôi sao càng nhìn càng toả sáng. 2. Tác phẩm “Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc”. – Hoàn cảnh sáng tác Bài văn tế được viết theo yêu cầu của tuần phủ Đỗ Quang để đọc tại lễ truy điệu các nghĩa sĩ Cần Giuộc; nhưng cũng là tiếng khóc tự đáy lòng tác giả và là tiếng khóc lớn của nhân dân trước sự hi sinh của những người anh hùng. Bài văn tế nằm trong giai đoạn thứ 2 thuộc bộ phận văn thơ yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu. Đây là tác phẩm có giá trị đặc biệt và độc đáo trong văn học dân tộc. Lần đầu tiên trong lịch sử văn học tác giả đã dựng một tượng đài nghệ thuật về hình ảnh những người nông dân chống thực dân Pháp tương xứng với phẩm chất vốn có của họ ở ngoài đời. – Bố cục theo cấu trúc chung lung khởi, thích thực, ai vãn, kết. II. Đọc hiểu văn bản. 1. Giới thiệu khái quát về thời cuộc và nhân vật người nông dân nghĩa sĩ – Với hình thức ngắn gọn, câu văn đã dựng nên khung cảnh bão táp của thời đại + “Súng giặc đất rền” → giặc xâm lược bằng vũ khí tối tân. + “Lòng dân trời tỏ” → ta đánh giặc bằng tấm lòng yêu quê hương đất nước. – Nghệ thuật đối lập nhằm thể hiện khung cảnh bão táp của thời đại, những biến cố chính trị lớn lao. Tuy thất bại những người nghĩa sĩ hi sinh nhưng tiếng thơm còn lưu truyền mãi. 2. Hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc a. Nguồn gốc xuất thân – Trước khi thành nghĩa quân đánh giặc, họ là những người nông dân nghèo khổ những dân ấp, dân lân bỏ quê đi khai khẩn những vùng đất mới để kiếm sống. – Từ cui cút mồ côi mồ cút không chỉ thể hiện hoàn cảnh sống cô đơn, thiếu người tựa nương, dựa dẫm mà còn thể hiện biết bao yêu thương của tác giả. – Nguyễn Đình Chiểu nhấn mạnh việc quen đồng ruộng và chưa quen chiến trận, quân sự của những người nông dân Nam Bộ để tạo sự đối lập tầm vóc anh hùng trong đoạn sau. – Nghệ thuật tương phản “chưa quen”, chỉ biết, vốn quen chưa biết. Tác giả nhấn mạnh việc quen và chưa quen của người nông dân để tạo ra sự đối lập về tầm vóc của người anh hùng. b. Lòng yêu nước nồng nàn – Thái độ đối với giặc + Căm ghét, căm thù. Thái độ đó được diễn tả bằng những hình ảnh cường điệu mạnh mẽ mà chân thực như nhà nông ghét cỏ muốn tới ăn gan, muốn ra cắn cổ – Nhận thức về tổ quốc + Không dung tha những kẻ thù lừa dối, bịp bợm. + Do vậy, họ chiến đấu một cách tự nguyện mến nghĩa… nào đợi ai đòi ai bắt….. Đây là sự chuyển hoá phi thường. c. Tinh thần chiến đấu hi sinh của người nông dân – Điều kiện và khí thế chiến đấu + Điều kiện thiếu thốn Ngoài cật = Một manh áo vải; Trong tay = Một ngọn tầm vông, một luỡi dao phay, nồi rơm con cúi → Quân trang, quân bi rất thô sơ. + Khí thế mạnh mẽ như vũ bão làm giặc kinh hoàng đốt, đâm chém, đạp, lướt .. – Hàng loạt các động từ mạnh được sử dụng gợi ra khí thế tấn công như thác đổ. – Hiệu quả đốt nhà thờ, chém rớt đầu quan hai. Nghệ thuật tả thực kết hợp với trữ tình, phép tượng phản, giàu nhịp điệu, tác giả đã dựng nên tượng đài nghệ thuật về người nông dân – nghĩa sĩ bình dị mà phi thường. – Tác giả sử dụng những động từ chỉ hành động mạnh mẽ với mật độ cao nhịp độ khẩn trương sôi nổi “đạp rào, lướt, xông vào” đặc biệt là những động từ chỉ hành động dứt khoát “đốt xong, chém rớt đầu” – Sử dụng các động từ chéo “đâm ngang, nchém ngược” → làm tăng thêm sự quyết liệt của trận đánh. Nguyễn Đình Chiểu đã tạt một tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông dân nghĩa sĩ đánh giặc cứu nước. 3. Sự tiếc thương và cảm phục của tác giả trươc sự hi sinh của người nghĩa sĩ a. Tiếng khóc cho người nghĩa sĩ – Tiếng khóc xót thương ở đây là của tác giả, của gia đình thân quyến, của nhân dân Nam bộ,và của cả nước. Do vậy, đó là tiếng khóc có tầm sử thi. – Cộng hưởng với tình yêu thiên nhiên và con người cỏ cây, sông, chợ, ngọn đèn, vợ, mẹ… – Lòng căm hờn quân giặc và triều đình gây nghịch cảnh éo le. → Tiếng khóc đau thương mà không bi lụy vì nó tràn đầy niềm tự hào, kính phục và ngợi ca những người đã chiến đấu và hi sinh cho Tổ quốc. Họ chết, nhưng tinh thần và việc làm của họ sống mãi trong lòng người. b. Tiếng khóc cho thời đại đau thương – Trở lại hiện thực, khóc thương, chia sẻ với gia đình nỗi mất mát mẹ mất con, vợ mất chồng. – Ngợi ca tấm lòng vì dân của nghĩa sĩ theo hướng vĩnh viễn hóa danh thơm đồn sáu tỉnh.. – Đông viên, tin tưởng, quyết tâm đánh giặc. – Cảm thương nhân dân đang phải khổ đau; thắp nén nhang tưởng nhớ người đã khuất lại chạnh lòng nghĩ đế nước non. → Tiếng khóc giọt lệ xót thương đau đớn của tác giả, gia đình, thân quyến người anh hùng, nhân dân Nam Bộ, nhân dân cả nước khóc thương những người ra đi, khóc thương cho thân phận những người nô lệ → Tiếng khóc lớn, tiếng khóc mang tầm vóc lịch sử. c. Bút pháp trữ tình thắm thiết. – Giọng điệu đa thanh giàu cung bậc tạo nên những câu văn thật vật vã, đớn đau. – Nhịp câu trầm lắng, gợi không khí lạnh lẽo, hiu hắt sau cái chết của nghĩa quân. d. Tiếng khóc Đồ Chiểu hợp thành bởi 3 yếu tố Nước, Dân, Trời. Đồ Chiểu nhân danh vận nước, nhân danh lich sử mà khóc cho những người anh hùng xả thân cho Tổ Quốc. Tiếng khóc ấy có tầm vóc sử thi, tầm vóc thời đại mà còn khích lệ lòng căn thù ý chí tiếp nối sự dở dang của người anh hùng nghĩa sĩ. 4. Ca ngợi linh hồn bất tử của người nghĩa sĩ – Tác giả đề cao quan niệm Chết vinh còn hơn sống nhục. Nêu cao tinh thần chiến đấu, xả thân vì nghĩa lớn của nghĩa quân. Họ ra trận không cần công danh bổng lộc mà chỉ vì một điều rất giản đơn là yêu nước. – Đây là cái tang chung của mọi người, của cả thời đại, là khúc bi tráng về người anh hùng thất thế, khẳng định sự bất tử của những người nghĩa sĩ. III. Tổng kết. 1. Nghệ thuật – Chất trữ tình thiết tha. – Thủ pháp tương phản và cấu trúc của thể văn biền ngẫu. – Ngôn ngữ vừa trân trọng vừa dân dã, mang đậm sắc thái Nam Bộ. – Không phát lộ bên ngoài mà tiềm ẩn ở tầng sâu cảm xúc, suy ngẫm. – Bút pháp trữ tình rung động mãnh liệt và bởi cái tâm trong sáng, chan chứa tình yêu nhân dân và nồng nàn tình yêu cuộc sống. – Rất đậm sắc thái Nam Bộ độc đáo xây dựng tính cách nhân vật, tả cảnh thiên nhiên, lời ăn tiếng nói mộc mạc, giản dị, chắc, khoẻ, bộc trực, từ ngữ địa phương, lối thơ thiên về kể tự sự. – Hạn chế Đôi khi chưa thật trau chuốt, còn thô mộc, dễ dãi. 2. Ý nghĩa văn bản – Vẻ đẹp bi tráng của người nông dânnghĩa sĩ. Lần đầu tiên trong văn học Việt Nam, người nông dân có mặt ở vị trí trung tâm và hiện ra với tất cả vẻ đẹp vốn có của họ. – Tác phẩm để lại bài học về nghị lực, bản lĩnh sống vượt lên bi kịch cá nhân, tinh thần bất khuất trước kẻ thù; tấm lòng yêu nước thương dân sâu nặng. Phân tích Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu Hỡi ơi! Súng giặc đất rền; Lòng dân trời năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao; Một trận nghĩa đánh Tây, thân tuy mất tiếng vang như linh xưa Cui cút làm ăn; Riêng lo nghèo quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn mong mưa; Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọt như nhà nông ghét thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu; Hai vầng nhật nguyệt chói loà, đâu dung lũ treo dê bán đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; Chẳng thèm chốn ngược, chốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ thương thay Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ, theo dòng ở lính diễn binh; Chẳng qua là dân ấp, dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn; Chín chục trận binh thư, đâu chờ bày cật có một manh áo vải, nào đợi đeo bao tấu bầu ngòi; Trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu nón mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nhọc quan quản gióng trống kỳ, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng đâm ngang, người chém dọc, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc tàu đồng súng lăm lòng nghĩa lâu dùng; Đâu biết xác phàm vội chắc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây; Trăm năm âm phủ ấy chữ quy, nào đợi gươm hùm treo sông Cầm Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng; Nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng luỵ phải án cướp, án gian đày tới, mà vi binh đánh giặc cho cam tâm; Vốn không giữ thành, giữ luỹ bỏ đi, mà hiệu lực theo quân cho đáng nghĩ rằng Tấc đất ngọn rau ơn chúa, tài bồi cho nước nhà ta; Bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương; Vì ai xui hào luỹ tan tành, xiêu mưa ngã gió?Sống làm chi theo quân tà đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn; Sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; Hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất thôi thôi! Chùa Tân Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm; Đồn Lang Sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đớn bấy! mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; Não nùng thay! vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước Một trận khói tan; Nghìn năm tiết tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé, ai làm cho bốn phía mây đen; Ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu đặng một phường con mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; Thác mà ưng đền miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia; Sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân; Cây hương nghĩa sĩ thắp nên thơm, cám bởi một câu vương ơi! Có linh xin hưởng.

đọc hiểu văn bản văn tế nghĩa sĩ cần giuộc